Archive for the ‘Kinh Thế Đạo’ Category

KINH THẾ ĐẠO

Posted: 31/10/2014 in Kinh Thế Đạo

Trải qua hai thời kỳ Phổ độ, Tam Giáo đã truyền lại biết bao nhiêu là Kinh sách quí báu để giác ngộ người đời. Như ta đã biết, Kinh là nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo, nên từ ngàn xưa, các vị Giáo chủ của Tam giáo đã đắc lệnh của Đức Chí Tôn, giáng cơ mở Đạo để tùy thời, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà truyền những kinh sách quí báu, hầu khai hóa đạo tâm cho con người, đưa con người đến sự giác ngộ.

Về Nho giáo, Đức Không Thánh đã để lại một kho kinh sách quí giá như Tứ Thư, Ngũ Kinh, sau này các hàng Đệ tử và hậu Nho tiếp tục xiển dương hệ thống triết lý đó làm nền tảng về nhân sinh, đạo đức và phong tục cho xã hội con người Á Đông, mà hơn hai nghìn năm nay con người vẫn còn sùng thượng.

Về Lão giáo, từ hai quyển “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử và “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử làm cơ sở cho triết lý “Vô vi”, đến thời nhà Tống các nhà Nho đem lý thuyết Vô vi của Lão Trang phối hợp với Dịch Lý của Nho mà tạo thành một phong trào “Huyền học” hay “Lý học”. Phong trào nầy có công lớn trong việc phát triển học thuyết Lão Trang đến chỗ phồn thịnh nhứt vào đời Ngụy, Tấn, Lục Triều…Lão giáo được thành hình sau đó để hướng con người về với Đạo là thuận lẽ thiên nhiên vô vi tự tại. Vì vậy, thuyết Vô vi của phái Đạo Gia đã ảnh hưởng không nhỏ về Vũ trụ quan và Nhân sinh quan qua con người Việt Nam ta từ ngày xưa cho đến bây giờ.

Về Phật giáo, sau khi Đức Phật thành Đạo, Ngài đã đem điều chứng đắc để giác ngộ chúng sinh tìm về bản thể chơn như, hầu đưa chúng sanh theo con đường giải thoát. Đến khi Phật nhập diệt, các vị đệ tử mới đem những lời dạy của Ngài kết tập lại thành Tam Tạng Kinh. Từ đó, Kinh sách của Phật được phổ truyền theo muôn đường vạn nẻo để đem cái Giáo Pháp cao siêu của Đức Phật mà giác ngộ chúng sinh trong tam đồ, lục đạo.

Đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, nhơn loại càng ngày càng đánh mất điểm thiên lương, nên tập nhiễm lợi danh, vật chất, tranh đấu giành giựt lẫn nhau, tương tàn tương sát vì chén cơm manh áo, vì quyền tước lợi danh, khiến phải chịu nhiều nỗi điêu linh, thống khổ.

Đã hai lần phổ độ mà sanh chúng vẫn bị mê mờ, mãi chìm sâu trong luân hồi biển khổ, nên lần này, Đức Chí Tôn không giáng Chơn linh, mà dùng huyền diệu cơ bút khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lập nên Chánh pháp Cao Đài, có tôn chỉ qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi, tức là nhìn nhận các Tôn giáo từ một nguồn gốc mà sinh ra: Đó là Thượng Đế. Vì vậy, sau ngày khai Đại Đạo, Hội thánh được lịnh Ơn Trên dạy thỉnh Kinh nơi Phật Giáo hay các chi Minh Sư, Minh Lý…về tụng niệm.

Mãi đến năm 1935, tức là gần mười năm khai Đạo, các Đấng Thiêng Liêng mới giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam Lộ của Đức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng Linh hồn của toàn thế giới. (1)

Quyển Tân Kinh do Hội Thánh ban hành được chia làm hai phần: Kinh Thiên ĐạoKinh Thế Đạo.

Những bài kinh Thiên Đạo được tụng trong các thời cúng tại Thánh thất hay tư gia nhằm xưng tụng công đức của các Đấng Thiêng Liêng và các bài kinh siêu độ các Chơn linh của những người quá cố.

Còn các bài kinh Thế Đạo là những bài Kinh như Thuyết pháp, Nhập hội, Hôn phối…ngoài ra còn các bài Kinh dạy về nhơn luân và đạo đức cho con người, tức là những bài Kinh có nội dung tỏ cái ơn nghĩa và tình cảm của chúng ta đối với người quá cố: Vua, thầy, tổ phụ, cha mẹ…

Tất cả Kinh Thế Đạo gồm 19 bài (trừ bài Kinh Cứu Khổ), trong đó có:

*Mười bài Kinh do Đức Hộ Pháp đặt ra, có cầu Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại. Mười bài Kinh đó là:

1.- Kinh Thuyết Pháp.

2.- Kinh Nhập Hội.

3.- Kinh xuất Hội

4.- Kinh Đi Ra Đường.

5.- Kinh Khi Về.

6.- Kinh Khi Đi Ngủ.

7.- Kinh Khi Thức Dậy.

8.- Kinh Vào Học.

9.- Kinh Vào Ăn Cơm.

10.- Kinh Khi Ăn Cơm Rồi.

*Một bài do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, đó là:

11.- Kinh Hôn Phối.

Và tám bài Kinh cúng tế trong tang lễ, do Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ ban cho và bài Kinh Cứu Khổ:

12.- Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.

13.- Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị.

14.- Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu.

15.- Kinh Cứu Khổ. (1)

16.- Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu.

17.- Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu.

18.- Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần.

19.- Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị.

20.- Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu.


(1) Trích lời tựa của Hội Thánh trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

(1) Bài Tựa của Hội Thánh trong quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

KINH KHI VỀ

Posted: 31/10/2014 in Kinh Thế Đạo

I.-KINH VĂN:


KINH KHI VỀ


Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,


Từ khi đi khi trở lộn về.


Đặng xong phận sự mọi bề,


Tâm tu lại vững chẳng hề lảng xao.


Nhẫng nhớ bước động Đào buổi trước,


Nhẫng nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.


Căn Ta Ca đỡ bước đi,


Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.


Dẫy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,


Lý Lão Quân mong lánh phong trần.


Núi Ô Li Vê để dấu chân,


Gia Tô Giáo Chủ giải phần hữu sanh.


Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,


Bước Ta bà giục thức huệ quang,


Lòn thân dưới phép sầu than,


Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.



II.-CHÚ GIẢI:



Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,


Từ khi đi khi trở lộn về.


Cảm tạ : Cảm kích và tạ ơn.


Ơn trên đầu: Ơn đức của Chí Tôn.


Dìu đỡ: Dìu dắt đỡ nâng.


Câu 1 và 2: Con xin cảm tạ ơn đức của Chí Tôn đã dìu dắt và nâng đỡ cho con từ khi ra đi đến lúc trở về.



Đặng xong phận sự mọi bề,


Tâm tu lại vững chẳng hề lảng xao.


Phận sự : Việc về phần mình phải làm.


Lảng xao: Hay xao lảng, ý chỉ sự bỏ bê, không lo tới, không nghĩ tới.


Câu 3: Công việc phải làm của con đã xong xuôi, tốt đẹp mọi bề.


Câu 4: Và cái tâm tu hành của con vẫn vững bền, không chút nào xao lảng.



Nhẫng nhớ bước động Đào buổi trước,


Nhẫng nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.


Nhẫng nhớ: Mãi nhớ tới.


Động Đào: Tức Đào nguyên động , hay Đào hoa nguyên : Suối hoa đào. Chỉ nơi Tiên ở.


Do bài “Đào hoa nguyên ký ” của Đào Uyên Minh hay Đào Tiềm đời nhà Tấn, Trung Quốc. Bài Ký đó được kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.


Sau khi tìm cách ra khỏi động Đào nguyên, người đánh cá trở về quê có kể lại sự tình cho viên Thái thú. Viên Thái thú sai người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.


Do vậy, Động đào, Nguồn đào, Đào nguyên, hay Suối hoa đào đều được dùng để chỉ nơi Tiên ở, hay động Tiên.


Hớn rước Diêu Trì: Vua Hớn Vũ Đế tiếp rước Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Do Điển tích như sau:


Trong ngày lễ khánh thọ, vua Vũ Đế nhà Hớn có sở nguyện muốn cầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu đến chứng lễ. Có một vị Tiên là Đông Phương Sóc biết được ý nhà vua, nên Ông tình nguyện đến triều bái Phật Mẫu để tỏ mọi điều. Phật Mẫu hẹn đêm Trung thu sẽ giáng lâm xuống Hoa Điện, là ngôi đền do vua Vũ Đế lập ra.


Vào nửa đêm Trung thu, bổng có chim thanh loan bay đậu trước sân, ông Đông Phương Sóc cho biết đó là tin của Đức Phật Mẫu sắp đến, rồi sau đó Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương cũng giáng lâm xuống Hoa Điện và ban cho vua Vũ Đế bốn quả Đào Tiên.


Do sự tích này, ở chánh điện Báo Ân Từ tại Tòa Thánh Tây Ninh, có hình ngôi Hoa Điện, trên có Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương cỡi chim thanh loan, đứng bên có Đông Phương Sóc đang tiếp rước Phật Mẫu. Trước sân Hoa Điện là Đức Thượng Phẩm quì nghinh giá.


Câu 5: Nhẫng nhớ đến chuyện động Đào nguyên khi xưa.


Câu 6: Và chuyện vua Hớn Vũ Đế tiếp rước Đức Diêu Trì Kim Mẫu tại Hoa Điện.



Căn Ta Ca đỡ bước đi,


Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.


Căn Ta Ca: Phiên âm từ Phạn ngữ Kantaka, Hán dịch là Càn Trắc (hay Kiền Trắc), là con ngựa của Thái tử Tất Đạt Đa (Sĩ Đạt Ta), lúc nửa đêm chở Ngài cùng với quan giữ ngựa là Xa Nặc, bỏ cung vàng điện ngọc để đi đến nơi thâm sơn cùng cốc mà tu hành. Sau đó, Ngài bảo ông Xa Nặc dẫn con ngựa Kiền Trắc trở về hoàng thành. Về đến thành, con Kiền Trắc liền bỏ ăn rồi chết.


Phật Tổ : Tổ sư của Đạo Phật.


Khi Thái tử Tất Đạt Đa tu thành Phật, lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni, sáng lập ra Đạo Phật và làm Giáo chủ Phật giáo, nên gọi là Phật Tổ.


Gặp kỳ: Gặp lúc.


Ly cung : Rời khỏi hoàng cung, tức là lìa khỏi cung ngự của Thái tử Tất Đạt Đa để xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho chúng sanh.


Câu 7 và 8: Lại nhớ đến ngựa Kiền Trắc của Thái tử Tất Đạt Đa, nửa đêm Ngài lìa khỏi hoàng cung, tìm đường giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Ngài thành Phật, lập nền Phật giáo.



Dẫy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,


Lý Lão Quân mong lánh phong trần.


Dẩy: Đẩy, cất lên, khởi động lên.


Xe trâu: Chiếc xe kéo bằng con trâu, gọi là độc giác thanh ngưu (con trâu xanh một sừng) của Đức Lão Tử.


Tương truyền Đức Lão Tử thường cỡi chiếc xe độc giác thanh ngưu để đi phổ độ người đời. Theo bài Kinh Tiên Giáo, Ngài cỡi xe trâu đến ải Hàm Cốc để truyền Kinh Đạo Đức cho quan lệnh Doãn Hỷ rồi sau đó, qua các vùng sa mạc phía Tây vực, đem Đạo Vô vi để tế độ cho chúng sanh nơi ấy. Trong Kinh Tiên Giáo có viết:


Tử khí đông lai, quảng truyền Đạo Đức


,


Hoặc:


Lưu sa Tây độ.


西


Côn Lôn : Núi Côn Lôn, một dãy núi ở Tân Cương, Trung Quốc.


Trổi bánh: Bánh xe khởi lăn tới.


Lý Lão Quân : Tức Lão Tử.


Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở , huyện Khổ , làng Lệ , xóm Khúc nhân , ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.


Ngài họ Lý , tên là Nhĩ , tự là Bá Dương , thụy là Đam . Ngài làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.


Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai Ngài có đến 80 năm mới sinh Ngài do hông bên trái dưới cội cây lý. Khi Ngài được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi Ngài là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của Ngài.


Khi đến Kinh Đô nhà Châu, gặp Lão Tử hỏi lễ, lúc về Khổng Tử bảo với các đệ tử rằng: Chim ta biết nó bay như thế nào, cá ta biết nó lội làm sao, thú ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy, thì ta có thể lưới bắt nó, cá lội, thì ta có dây câu ví nó, chim bay, thì ta có bẫy gài nó. Chí như con rồng, thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay luyện như thế nào. Nay ta thấy Lão Tử như con rồng! (Ngô kim kiến Lão Tử kỳ do long da! !).


Ở tại Lạc Dương phía đông nhà Châu một thời gian lâu, sau thấy nhà Châu suy, nên Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây, khi đi đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ . Biết Lão Tử là một Thánh nhân nên quan Doãn tôn Ngài làm Thầy để xin theo học Đạo.


Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này, quyển sách đó được gọi là “Đao Đức Kinh”.


Rồi từ đó, Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây mất dạng, người ta không biết Ngài đi về đâu.


Đức Lão Tử được vua Đường Cao Tông nhìn là thủy tổ, nên truy phong cho Ngài “Huyền Nguyên Hoàng Đế”.


Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Quân hóa sinh ra, là giáo chủ của Đạo Tiên.


Phong trần : Gió và bụi, chỉ cảnh vất vả, gian nan và uế trược ở cõi trần.


Câu 9: Nhớ đến chuyện Đức Lão Tử ngồi trên xe trâu qua ải Hàm Cốc, truyền Đạo cho ông Doãn Hỷ.


Câu 10: Và sau đó, Ngài vượt qua núi Côn lôn qua Sa mạc phía Tây (tức miền Tây vức), để đem Đạo Vô vi độ chúng sanh nơi ấy, hầu lánh xa cõi trần bụi bậm này (Kinh Tiên giáo có câu: Lưu sa Tây độ).



Núi Ô Li Vê để dấu chân,


Gia Tô Giáo Chủ giải phần hữu sanh.


Núi Ô Li Vê: Đọc từ âm chữ Pháp Mont des Oliviers, chỉ một ngọn núi ở gần thành Jérusalem của Do Thái. Nơi ngọn núi này Đức Chúa Jésus Christ đã từng tiên tri về thành Jérusalem sau này sẽ bị tàn phá và về sự tái sinh của Ngài. Trước khi Ngài chết để chuộc tội cho loài người, Ngài có lên núi Ô Li Vê (Mont des Oliviers) để cầu nguyện Đức Thượng Đế tha tội cho nhơn loại.


Để dấu chân: Đặt dấu chân đến.


Gia Tô Giáo Chủ : Đức Chúa Jésus Christ, Giáo chủ Thiên Chúa giáo, Công giáo, hay Gia Tô giáo.


Da Tô 耶 蘇 được người Tàu dịch âm từ Jésus, đầy đủ hơn là Jésus Christ, là Đấng Chúa Cứu Thế ở Do Thái.


Long vị thờ Đấng Chúa Cứu Thế tại Đền Thánh được viết là Da Tô Giáo Chủ (thay vì Gia Tô Giáo Chủ ).


Ngài sanh vào đêm 25 tháng 12 tại thành Bethléem. Mẹ của Ngài là Maria, một nữ tu tại đền thờ Jérusalem. Cha Ngài là Joseph. Hai ông bà rất mộ đạo, tuy bà đang có thai, gần ngày sanh, nhưng hai người vẫn cố gắng tới Đền thờ để chầu lễ. Vì vậy, đúng 12 giờ đêm Noel bà chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus nơi máng cỏ trong chuồng chiên.


Năm 30 tuổi, Ngài được Thánh Jean Baptiste làm lễ giải oan tại bờ sông Jourdain. Từ đó, Ngài khởi sự giảng Thánh Kinh ngay trong xứ Galilée và Jérusalem, lập nên đạo Thánh ở Do Thái, rồi truyền bá mạnh mẽ sang Châu Âu. Uy quyền bọn vua quan phong kiến bị lung lay, nên chúng tìm cách giết Ngài.


Bọn chúng mua chuộc một tông đồ của Ngài là Yuda, phản lại Ngài vu cáo cho Ngài mưu việc phản loạn, rồi bắt Ngài lên án tử hình và đóng đinh trên thập tự giá.


Cái chết của Đức Chúa Jésus thật là cao cả, Ngài chuộc tội cho loài người bên xứ Châu Âu, trở thành một vị Chúa Cứu Thế cho nhơn loại.


Giải phần hữu sanh : Giải về phần có sự sống, nghĩa là Giáo lý của Đấng Chúa Cứu Thế dạy về Thế đạo, tức về phần đời của nhơn loại.


Câu 11: Trên núi Ô Li Vê ở Do Thái, là nơi đặt dấu chân của Đức Chúa Jésus Christ.


Câu 12: Đức Gia Tô Giáo Chủ giải về phần đời sống của con người, tức là giải về lý của kiếp sanh.



Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,


Bước Ta bà giục thức huệ quang,


Khuôn linh: Cái khuôn thiêng liêng, chỉ Đấng Tạo hóa, hay Đức Chí Tôn. Đồng nghĩa với Khuôn thiêng, Khuôn hồng.


Ta Bà: Còn gọi là Sa Bà , tiếng Phạn Saha, Hán dịch là Kham nhẫn . Đây chính là một cõi Tam thiên Đại thiên thế giới, thuộc phạm vi hóa độ của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Sở dĩ dịch là Kham nhẫn, hàm ý: Chúng sanh trong cõi Sa Bà cam lòng chịu đựng những nỗi khổ sở do ngũ trược gây ra, chẳng biết kiêng sợ. Dù các Tôn giáo đem giáo pháp đến chỉ dạy, vẫn ít kẻ chịu tu hành để thoát ly khổ cảnh, cam tâm vùi đắm mãi trong trói buộc, nên gọi là Kham nhẫn.


Cõi chúng ta đang sinh sống thuộc về Thế giới Ta Bà.


Bước Ta Bà: Bước đi cùng khắp.


Giục thức: Thúc giục cho thức tỉnh.


Huệ quang : Ánh sáng của trí huệ. Ánh sáng chiếu tan sự tối tăm ở thế gian, trí huệ cũng vậy, có công năng phá tan sự vô minh đen tối của chúng sanh.


Câu 13: Con nguyện xin Đức Chí Tôn dùng huyền diệu thiêng liêng giúp cho con.


Câu 14: Và đánh thức cái huệ quang, cái Đạo tâm của con được sáng suốt để con có thể đi hành Đạo khắp mọi nơi.



Lòn thân dưới phép sầu than,


Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.


Lòn thân: Lấy cái thân lòn cúi vào, đem tấm thân đặt vào nơi.


Phép: Cái pháp , theo Phật, pháp là tất cả những gì có thể dùng giác quan nhận biết được và luôn tất cả những gì có thể ý niệm được như nhận thức cảm giác, hay có thể dùng đến ngôn ngữ luận đàm được.


Sầu than: Sự buồn rầu, đau khổ, sự phiền não, lầm lạc…


Phép sầu than: Đó là cái pháp tướng của cõi thế giới Ta Bà, đầy ác trược và uế trược. Đó là những thứ khổ hình, trược chất mà con người phải nhận lấy, phải cam chịu ở cõi thế gian.


Căn : Cái gốc rễ. Do gốc rễ của hành vi thiện ác mà kiếp sống hiện tại con người phải thọ lãnh cái nghiệp, nếu kiếp trước làm những điều thiện, thì tạo căn lành cho kiếp sống hiện tại, nếu bây giờ ta làm những việc ác, thì tạo ác căn cho kiếp lai sinh. Như vậy, căn hay cái gốc rễ tạo thành cái nghiệp cho con người, vì thế người ta thường gọi căn quả hay căn nghiệp.


Giải căn : Cởi bỏ tất cả các oan khiên nghiệt chướng của kiếp trước.


Câu 15: Lấy cái thân chịu đựng trong cảnh nhằn nhọc, khổ sở và phiền não này.


Câu 16: Để tìm phương cứu giúp cho chúng sanh và mở ra con đường giải trừ oan nghiệt cho con người.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA


I.-KINH VĂN:

KINH RA ĐI ĐƯỜNG


Thân vận động trong trường thế sự,


Đạo nhơn luân cư xử cùng đời.


Đòi phen lúc biến khi dời,


Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.


Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,


E trở tâm tánh bắt đổi thay.


Con xin nương bóng Cao Đài,


Bước ra một bước cảm hoài căn tu.


Gót chơn đưa rủi như sát mạng,


Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi,


Xin tha họa gởi tai rơi,


Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.


Đại Từ Phụ oai linh bảo hộ,


Những chông gai quét ngõ ven đường.


Đi an khương, về an khương,


Cõi Thiên, cảnh Tục cũng dường chung nhau.



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Theo Nho giáo, Trời phú tính cho con người có một cái đức sáng để hiếu biết nhơn nghĩa, đạo lý, ta cố gắng rèn luyện sao cho sáng cái đức sáng ấy để đạt đến chí thiện. Sách Trung Dung có nói rằng: Trời phú cho gọi là tính, theo tính gọi là đạo, sửa đạo gọi là giáo (Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo , , ).


Như vậy, Đạo là theo Thiên lý, mà Thiên lý với cái bản tính của người ta vốn là một, vậy thì Đạo là cốt sửa cái tính của người cho hợp Thiên lý, cho nên trong Trung Dung, Khổng Tử nói rằng: Đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo Đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là Đạo (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo , , ). Như thế Đạo không phút giây nào xa lìa con người được, nếu xa lìa ra được không phải là Đạo: Đạo giả dã, bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã , , .


Đức Chí Tôn cũng mong muốn các môn đồ dầu là chức sắc hay tín đồ đều phải giữ cho Đạo không xa rời bản tính của con người, cho nên mới ban cho những bài kinh Thế đạo, hầu nhắc nhở mọi người trong sự sinh hoạt hằng ngày, những bài Kinh đó là:


– Kinh Đi Ra Đường.


– Kinh Khi Về.


– Kinh Khi Đi Ngủ.


– Kinh Khi Thức Dậy.


– Kinh Vào Học.


– Kinh Vào Ăn Cơm.


– Kinh Khi Ăn Cơm Rồi.


Những bài Kinh này đều là do Đức Hộ Pháp viết ra có nhờ Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại.


Những bài kinh Thế Đạo này thường bị lãng quên hay nếu có gần như chỉ áp dụng cho các em đồng nhi hoặc các trẻ nhỏ mà thôi (Ví dụ như đồng nhi phải đọc kinh khi ăn cơm, khi ăn cơm rồi, học sinh phải đọc bài kinh Khi Vào Học…). Điều nầy thực là lầm lẫn, vì Đức Hộ Pháp có dạy rằng: “Không có một điều gì mà Chí Tôn định trong chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp, dầu Thể pháp mà vô ích đâu. Đấng ấy là Đấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày khai Đạo, Kinh kệ, lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo đức cũng chính Chí Tôn tạo thành, không phải do các Đấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới bó buộc”.


Như vậy, những bài Kinh này dành cho mọi người dầu chức sắc hay tín đồ, dầu người lớn hay trẻ nhỏ đều phải tụng, niệm trong những trường hợp như: Ra đường, trở về nhà, đi ngủ, thức dậy, vào học, ăn cơm, ăn cơm rồi. Những sinh hoạt thường nhựt này buộc mọi tín đồ tụng, niệm nhằm mục đích như nhắc nhở bên tai người tín đồ hằng lúc, hằng ngày vậy. Nếu từng khoảnh khắc chúng ta tâm niệm những bài Kinh này, tức là thường nhắc nhở ta những điều lành, thì những điều ác, điều xấu đâu còn nằm trong tư tưởng của ta nữa. Nếu nhiều khoảnh khắc như vậy thì kể như suốt ngày ta đều có những tư tưởng thiện, ấy là kim chỉ nam hướng dẫn lần lần thân phàm xác tục luôn luôn hướng về những việc thiện lành. Ông Trang Tử nói: Nếu một ngày mà chẳng tưởng đến việc lành thì mọi sự dữ sẽ dấy lên (Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi , ).


Ngoài ra, khi tụng, niệm những bài Kinh Thế Đạo thuộc loại sinh hoạt hằng ngày này cũng nhằm mục đích buộc tâm thần của người tín đồ luôn luôn hướng về Đức Chí Tôn, dù đang làm bất cứ công việc gì. Lòng chí thành và tư tưởng lành của người tín đồ là những điển lực gởi đến các Đấng Thiêng Liêng những lời cầu nguyện chân thành. Những điển lực này từ những thực thể hữu hình sẽ được cảm ứng với các Đấng vô vi làm cho mối tương giao hằng ngày giữa hai thực thể hữu và vô được nối kết, khiến Chơn thần của người tín đồ càng trong sạch, nhẹ nhàng và Thiêng liêng hơn. Chính vì thế, trong bài Kinh Đi Ra Đường có nhắc nhở người tín đồ Cao Đài lúc nào cũng phải:


Con xin nương bóng Cao Đài,


Bước đi một bước cảm hoài căn tu.



III.-CHÚ GIẢI:


Thân vận động trong trường thế sự,


Đạo nhơn luân cư xử cùng đời.


Vận động : Hoạt động để làm việc.


Trường : Sân, nơi tụ họp đông người.


Thế sự : Sự việc ở trên đời.


Trường thế sự: Trường đời.


Nhơn luân : Đường lối cư xử của con người với nhau cho đúng theo luân lý đạo đức.


Theo Nho giáo, đạo nhơn luân của con người gồm có Ngũ luân và Ngũ thường .


Ngũ luân gồm: Quân thần (Vua tôi), Phụ tử (Cha con), Phu phụ (Chồng vợ), Huynh đệ (Anh em), Bằng hữu (Bạn bè).


Ngũ thường gồm có: Nhân , Nghĩa , Lễ , Trí , và Tín .


Câu 1: Con người lấy tấm thân hoạt động mưu sự sống trong trường đời.


Câu 2: Phải học Đạo nhơn luân để đem ra cư xử cùng đời.


Con người sinh ra ai cũng được Chí Tôn ban cho một điểm Linh quang rất Thiêng liêng, Thánh thiện, nhưng vì thân xác con người có xu hướng theo vật chất, nên thất tình, lục dục là những tên giặc hằng ở bên con người tìm cách sai khiến, xúi giục tâm chạy theo dục vọng. Vì thế, những bậc Thánh nhân, hiền triết hay các tôn giáo đều đem những phép tắc hay giáo điều dạy cho con người phải biết cách cư xử với nhau cho hợp nhơn luân, đạo đức trong trường thế sự.


Chính ngày xưa Mạnh Tử cho rằng Thánh nhân với nguời thường cũng không khác nhau. Có người bảo ông rằng: Vua nước Tề sai người đi dò xem ông có điều gì khác hơn người không. Ông nói rằng: Ta có gì khác người đâu, các bậc vua Thánh như Nghiêu, Thuấn cũng như mọi người vậy. (Hà dĩ dị ư nhân tai, Nghiêu Thuấn dữ nhân đồng nhĩ , ). Thực vậy, vua Nghiêu, Thuấn cũng là người như chúng ta, đều bẩm thụ một lý, một khí, cùng một tâm như mọi người cả, chỉ có điều là những bậc ấy khéo lấy cái bản tâm thiện lành để cư xử trong gia đình, xã hội. Nếu ai cũng giữ được như thế thì chắc là chẳng khác gì những bậc ấy.



Đòi phen lúc biến khi dời,


Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.


Đòi phen: Nhiều lần, nhiều phen.


Biến, dời: Đổi thay, xê dịch.


Bèo bọt: Cánh bèo và bọt nước.


Thân như bèo bọt: Thân phận con người sống ở thế gian tựa như cánh bèo lênh đênh trên sông nước, không biết đi về đâu, và lại không bền lâu, dễ tan vỡ như bọt nước.


Giữa vời: Ở giữa vùng sông nước, giữa khơi.


Linh đinh : Một mình cô độc, còn có nghĩa là lênh đênh, tức trôi nổi ở giữa dòng, không bám víu vào đâu được, hoặc nay đây mai đó.


Câu 3: Con người khi thì biến lúc thì dời, phải chịu nhiều phen thay đổi.


Câu 4: Thân phận con người ví như cánh bèo, bọt nước: lênh đênh, trôi nổi ngoài khơi vùng sông suối, không đâu là bờ bến và dễ vỡ tan thành bọt nước.



Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,


E trở tâm tánh bắt đổi thay.


Kinh dinh : Trù hoạch để làm việc, sửa sang.


E: Sợ, e sợ.


Trở Tâm: Lòng thay đổi, tâm biến đổi.


Tâm tu của con người thường bị thay đổi là do không vững đức tin. Đức tin là điều kiện trước nhứt cho người tu hành, dù gặp hoàn cảnh khó khăn nào, dù bị sự lay chuyển nào, nếu đức tin vững chắc thì tâm cũng không bao giờ thay đổi.


Câu 6: Con nhìn thấy những cuộc kinh dinh xảy ra trước mắt.


Câu 7: Sợ lòng con ham mê vật chất, rồi bị lôi cuốn theo đời mà khiến tâm tánh bắt đổi thay.


Đối với hai câu Kinh trên thực là những lời nhắc nhở quí giá cho những người bước chân đi vào con đường đạo đức phải nên cân nhắc thận trọng.


Thực thế, làm con người, ai cũng muốn sang giàu, ăn ngon mặc đẹp. Những cái xa hoa phù phiếm, cái hào nhoáng bên ngoài như nhà lầu, xe hơi…hằng ngày đập vào mắt, làm cho con người thèm thuồng, mơ tưởng. Chính cái lòng ham muốn này, nó mới rù quến, xúi dục tâm của con người đang yên tĩnh, thiện lành, bỗng dấy lên lòng ham muốn, tham lam.


Con người nếu không biết cách tồn tâm thì sẽ bị đắm đuối vào con đường vật chất. Còn nếu con người có tu hành thì phải có một đức tin vững chắc vào Chí Tôn, Phật Mẫu thì mới có thể không bị lay chuyển hay thay đổi cái tâm tu đặng.



Con xin nương bóng Cao Đài,


Bước ra một bước cảm hoài căn tu.


Xin nương: Xin nương dựa vào, xin sự che chở.


Bóng Cao Đài: Ánh sáng của Đức Chí Tôn, nhờ Chí Tôn soi rọi, dẫn dắt.


Cảm hoài : Trong lòng có điều cảm khái, tức cảm xúc nhớ nhung trong lòng.


Căn tu: Hay tu căn : Có cái gốc tu hành, nói theo Đạo là người có căn duyên tu hành.


Câu 7: Con xin nương tựa vào Đức Chí Tôn, nhờ Đấng cha lành giúp cho con đầy đủ đức tin.


Câu 8: Để khi bước ra đường một bước, lòng lúc nào cũng cảm nhớ đến căn duyên tu hành của mình.


Nương theo bóng Cao Đài có nghĩa là nương tựa vào Đức Chí Tôn, mà nương vào Chí Tôn, không chỉ là nhập môn vào Đạo thôi, mà lúc nào cũng phải niệm danh hiệu Ngài, tức là luôn luôn tưởng nhớ đến đức hạnh tròn lành, quyền năng vô thượng, và nguyện cố gắng noi theo những Thánh đức của Ngài.


Sở dĩ hằng ngày chúng ta phải niệm danh hiệu Đức Chí Tôn là vì chúng ta muốn phát triển sáng tỏ cái lương tri lương năng đang bị che mờ bởi vật dục.


Lòng dục của con người làm cho cái tâm như con ngựa hay vượn, luôn luôn chạy nhảy, không bao giờ ở yên một chỗ. Bởi thế, nếu ta không biết kềm giữ, chế ngự thì tâm ý của ta cũng không bao giờ yên định được. Niệm danh hiệu Chí Tôn nhằm nhắc nhở tâm ý nghĩ đến những điều đẹp, điều tốt, có những ý tưởng thuần lương, những hành động trong sáng, nhờ vậy những tư tưởng xấu xa đen tối sẽ không bao giờ manh nha được.


Tóm lại, chúng ta nương theo bóng Cao Đài là dù bước đi đường một bước, lòng lúc nào cũng tưởng nhớ đến Chí Tôn, đến căn duyên tu hành của ta vậy.



Gót chơn đưa rủi như sát mạng,


Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi,


Gót chân đưa: Đưa bước chân đi, chân bước đi.


Sát mạng: Hay sát mệnh : Giết chết mạng sống.


Vật hữu linh : Vạn vật đều bẩm thụ Chơn linh của Đức Chí Tôn phân tính ra, nên các loài vật đều có linh tánh. Tánh linh này tùy trình độ tiến hóa của mỗi loài, trong đó, con người là có tánh linh hơn hết.


Phàm nhãn : Con mắt của người phàm, tức là mắt của thân thể xác thịt, gọi là mắt phàm.


Khôn soi: Không thấy, không soi thấu.


Câu 9 và 10: Khi bước chân ra đi rủi như có đạp chết những sinh vật có tánh linh, ấy là vì mắt phàm xác thịt nên không soi thấu.


Con người khi bước vào đường tu, các tôn giáo đều đưa ra những giới cấm để người tu phải thực hành theo. Cũng như Phật giáo, Đạo Cao Đài lấy ngũ giới cấm làm phương châm tu tập. Trong ngũ giới cấm, điều giới sát đứng đầu tiên dành cho người thọ giới phải hành trì một cách nghiêm nhặt, song thường người ta chỉ tránh sát mạng con người hay các loài cầm thú, còn những loại như côn trùng, ong, kiến, người ta ít quan tâm tới, vì coi nó là một sinh vật nhỏ bé. Nhưng theo triết lý Cao Đài, mọi vật dù lớn nhỏ đều có một điểm Chơn linh của Đức Chí Tôn phân tánh, nên đều có tánh linh như nhau. Vì vậy, muôn Chơn linh đều được Thượng Đế thương đều nhau, trong Kinh Sám Hối có viết:


Lòng Trời đất thương đều muôn vật,


Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.


Thượng cầm hạ thú lao xao,


Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.


Nó cũng muốn như mình đặng sống,


Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.


Chính vì mọi vật đều hữu linh, đều được Chí Tôn thương đồng đều như nhau, nên người tu hành, khi bước chân ra đường lỡ như đạp chết những sinh vật nhỏ bé thì vô tình cũng phạm phải giới cấm sát sinh. Do vậy, khi bước chân đi chúng ta có niệm Kinh Ra Đi Đường thì coi như một lời sám hối, một lời cầu xin Ơn Trên tha thứ tội tình cho chúng ta vậy.



Xin tha họa gởi tai rơi,


Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.


Họa gởi tai rơi: Những tai họa bất ngờ đưa đến.


Hồn linh : Vong hồn linh hiển.


Ơn Trời: Ơn Thượng Đế, ơn Đức Chí Tôn.


Chứng minh : Chứng thật rõ ràng, chứng chiếu.


Câu 11 và 12: Xin tha cho những tai họa mang đến bất ngờ. Cầu xin hồn linh và nhờ ơn Trời chứng minh đến lòng thành thật này.



Đại Từ Phụ oai linh bảo hộ,


Những chông gai quét ngõ ven đường.


Đại Từ Phụ : Đấng Cha lành, chỉ Đức Chí Tôn.


Oai linh: Hay uy linh : Quyền uy linh hiển.


Bảo hộ : Che chở và gìn giữ.


Câu 13 và 14: Cầu xin Đức Đại Từ Phụ dụng uy linh bảo cho con tránh được những chông gai ở ven đường ngoài ngõ.



Đi an khương, về an khương,


Cõi Thiên, cảnh Tục cũng dường chung nhau.


An khương: Hay an khang : Yên ổn, vui vẻ và mạnh khoẻ.


Cõi Thiên: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Cảnh tục: Cảnh nơi cõi phàm tục, cảnh trần gian.


Cũng dường chung nhau: Dường như cũng giống nhau.


Câu 15: Xin giúp cho con khi ra đi và khi trở về đều được an khang.


Câu 16: Cầu cho những con đường ở thế gian đều được bình an như đường nơi Thiên cảnh.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

KINH XUẤT HỘI

Posted: 31/10/2014 in Kinh Thế Đạo

I.-KINH VĂN:


KINH XUẤT HỘI


Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Đạo,


Phật, Thánh, Tiên nhỏ máu nhiệt thành.


Vạn linh đã hiệp Chí Linh,


Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.


Đã gầy dựng nên quyền Tạo Hóa,


Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.


Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,


Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.


Các con cúi đầu trình sư phụ (cúi đầu)


Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.


Đạo hư vô, Sư hư vô,


Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.


Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,


Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.


Cửa Địa ngục, chóng lánh xa,


Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Kinh Xuất Hội là một bài Kinh của Đức Hộ Pháp đặt ra có nhờ Đức nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại.


Kinh Xuất Hội dùng để đồng nhi và toàn thể những người tham dự hội tụng đọc trước khi hội nghị đã kết thúc thành công tốt đẹp và bế mạc.


Kinh Xuất Hội có nội dung nhắc nhở những thành viên trong hội nghị từ đây phải giữ vẹn thánh thân để đem nền Chơn pháp dạy dỗ toàn thể chúng sanh và độ dẫn tất cả nguyên nhân về hội hiệp cùng Thầy, phải đem lòng thương mến dạy dỗ tăng đồ cho biết lẽ mầu nhiệm của nền Chánh giáo, hầu giúp cho Đạo được hoằng khai, càng lan rộng khắp mọi nơi mọi chốn.



III.-CHÚ GIẢI:


Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Đạo,


Phật, Thánh, Tiên nhỏ máu nhiệt thành.


Lẽ đạo: Do từ chữ Đạo lý mà ra, nghĩa là những phép tắc ứng xử có đạo lý, hay những giáo lý của tôn giáo.


Nhỏ máu: Chỉ sự hy sinh làm việc.


Nhiệt thành : Lòng thành thật và sốt sắng. Như chữ nhiệt tâm .


Câu 1 và 2: Nhờ Đức Chí Tôn dạy cho con biết mối Đạo Trời và chư Phật, Tiên, Thánh tận tình giúp đỡ cho con hiểu được lẽ Đạo, khiến lòng con sáng suốt thêm.



Vạn linh đã hiệp Chí Linh,


Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.


Vạn linh : Muôn Chơn linh, tức là tất cả chúng sanh bao gồm bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.


Chí Linh : Rất linh hiển. Chỉ Đức Chí Tôn.


Vạn linh đã hiệp Chí Linh: Tức là quyền chúng sanh đã hiệp cùng quyền của Đức Chí Tôn.


Quyền vạn linh: Là tất cả những điều luật mà chúng sanh đã quyết nghị và chấp thuận.


Quyền vạn linh này được Chí Tôn chấp thuận ngang bằng quyền Chí Tôn. Trong Đạo Cao Đài, quyền vạn linh được thể hiện qua ba hội: Hội nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.


Những điều luật do ba Hội đã quyết nghị, đó là quyền vạn linh, được ngang bằng với quyền Chí Tôn.


Công bình thiêng liêng: Sự công bình nơi cõi Thiêng Liêng, tức là sự công bình của Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Sự công bình này có tính cách tuyệt đối.


Thế gian là nơi chứa đầy những sự bất công, chính vì vậy mà nền Đại Đạo mới được khai sinh, đem đạo Nho ra để giáo hóa tất cả chúng sanh, hầu mang lại một xã hội công bằng, Thánh đức. Đức Chí Tôn có nói rằng: “Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy”.


Câu 3: Quyền của vạn linh đã hiệp cùng quyền của Chí Tôn.


Câu 4: Nhờ sự công bình thiêng liêng đã dạy chúng con, làm cho phiên họp được kết thúc tốt đẹp.



Đã gầy dựng nên quyền Tạo Hóa,


Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.


Gầy dựng: Tức xây dựng nên.


Giáo hóa : Dạy dỗ, dẫn dắt từ xấu trở nên tốt, từ hung dữ trở thành hiền lương.


Quyền giáo hóa 教 化 權: Quyền dạy dỗ. Trong Đạo Cao Đài, các chức sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu (hàng Thánh) trở lên họp lại làm thành Hội Thánh, được Chí Tôn ban cho quyền giáo hóa để phổ độ nhơn sanh.


Phòng : Dự phòng, dự bị sẵn.


Hiệp vầy: Sum vầy, sum họp lại.


Nguyên nhân : Những bậc có Chơn linh được sinh ra từ lúc khai Thiên lập địa. Những Chơn linh này do Chí Tôn, Phật Mẫu sai xuống có nhiệm vụ độ rỗi chúng sanh. Khi đầu kiếp xuống thế, họ mê luyến hồng trần, nên Chí Tôn đem Phật tánh phổ hóa cho họ, nhờ vậy mà họ có thể trở về ngôi xưa vị cũ.


Đức Phật Mẫu cho xuống trần 100 ức nguyên nhân, Phật độ đặng 6 ức, Tiên độ đặng 2 ức, còn lại 92 ức vẫn đọa lạc nơi cõi trần. Bài kinh Phật giáo nói lên điều đó: “Khai cửu thập nhị tào chi mê muội ”, nghĩa là khai hóa chín mươi hai ức nguyên nhân còn đang mê muội.


Đến Tam Kỳ Phổ Độ, Phật Mẫu đến giáo hóa, định đem hết về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống như lời trong Phật Mẫu Chơn Kinh đã viết: “Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh ”, tức là Đức Phật Mẫu hoàn trả Phật tánh lại cho các nguyên nhân và sẽ đem họ về với ngôi xưa vị cũ.


Câu 5: Chí Tôn xây dựng nên Hội Thánh, rồi ban cho quyền giáo hóa chúng sanh.


Câu 6: Đại Đạo ra đời cũng là để dự bị đem tất cả các nguyên nhân về hội hiệp cùng Đức Chí Tôn.



Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,


Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.


Phàm thể : Thân thể phàm tục. Đây có ý chỉ toàn thể chúng sanh.


Thánh thân : Như Thánh thể, chỉ Hội Thánh.


Chơn pháp : Chơn (chân) là thực, không giả dối, không hư ảo, chân chính, ngay thực; pháp là pháp luật, lễ giáo, đạo lý, phép nhiệm mầu. Chơn pháp là Giáo pháp chơn chánh, ngay thực, bất di, bất dịch.


Câu 7: Con cầu xin cho phàm thể tức nhơn sanh, Thánh thân tức Hội Thánh được hòa hiệp nhau và toàn vẹn.


Câu 8: Tùy theo giáo pháp chơn truyền của Chí Tôn, Hội Thánh sẽ độ lần lần tất cả chúng sanh.



Các con cúi đầu trình Sư Phụ,


Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.


Sư Phụ : Tức là Thầy.Thầy là chỉ Đức Chí Tôn.


Trong thời mở Đạo kỳ ba này, Đức Chí Tôn không giáng Chơn linh như những lần trước, mà chính Ngài dùng huyền diệu Thiêng liêng để giáng cơ khai Đạo. Ngài là Đấng Thiên Đế trong Càn khôn Vũ trụ, lại là Giáo chủ của nền Đại Đạo, mà hạ mình xưng là Thầy và gọi chư tín đồ là môn đệ. Vì thế, mọi tín đồ của Đạo Cao Đài đều coi Ngài như Sư Phụ, và gọi bằng Thầy.


Từ tâm : Lòng thương yêu tất cả chúng sanh không vụ lợi, không điều kiện, không phân biệt lạ quen hay sang hèn. Lòng thương yêu này, phát xuất từ lòng thương yêu chân thật, lòng bình đẳng, không đòi hỏi bất cứ một sự đền đáp nào.


Khuyến nhủ: Khuyên bảo.


Tăng đồ : Tăng là người xuất gia tu hành, nói chung là các Thầy tu. Tăng đối với Đạo Cao Đài chỉ những chức sắc, chức việc hiến thân hành Đạo. Đồ là chỉ tất cả các tín đồ.


Tăng đồ cũng như tăng chúng, là từ chỉ chư tăng và chư tín đồ, tức là các hàng chức sắc và tín đồ của một Tôn giáo.


Câu 9: Các con cung kính cúi đầu trình với Sư Phụ.


Câu 10: Chúng con nguyện giữ lòng từ bi để khuyên dạy các tín đồ.



Đạo hư vô, Sư hư vô,


Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.


Đạo hư vô : Đạo không sắc tướng, Đạo không không.


Hiểu theo Hình nhi hạ của Nho giáo, Đạo là đường lối, phép tắc đối nhân xử thế của con người, đó là Nhân đạo.


Đến thời Lão Tử, một Đạo gia đầu tiên của Trung Quốc đưa ra thuyết bản căn của Vũ trụ và đề xướng Đạo luận. Từ đó Đạo được hiểu với nghĩa Hình nhi thượng, tức là Thiên đạo.


Theo Lão tử, Đạo là bản căn của Càn khôn Thế giới, là nguyên lý từ đó mà vạn vật được sinh ra, muôn loài noi theo, là cái qui luật chi phối sự sinh thành biến hóa của Trời đất và muôn vật. Như vậy Đạo là hư vô, Đạo tức Hư vô chi khí, Đạo vốn không hình sắc, nhưng muôn vật có hình thể lại do Đạo sinh ra.


Như vậy, về thể, Đạo là hư vô, không hình tướng; về mặt dụng, Đạo là có, vì là nguồn gốc sinh ra muôn vật. Hay nói cách khác, khi Đạo còn ở trạng thái hư vô, thanh tĩnh thì Đạo là không, khi Đạo đã sinh ra vạn vật thì Đạo là có.


Sách Hoài Nam Tử có viết: Cái không có hình sắc là gốc đầu tiên của mọi vật (Phù vô hình giả, vật chi đại tổ dã , ).


Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử cũng nói: Không, là tên cái đầu tiên của Trời đất, có là tên gọi mẹ muôn vật (Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu , ).


Tóm lại, cái có hình là từ cái không hình mà sinh ra (Hữu hình xuất vu vô hình ). Đạo hư vô sinh ra Vũ trụ và vạn vật là cái hữu hình.


Sư hư vô : Thầy cũng hư vô.


Thực vậy, trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn không giáng trần như những lần trước, chỉ dùng huyền diệu Thiêng liêng để giáng cơ khai nền Đại Đạo, Ngài xuống xưng là Thầy của vạn linh. Vì vậy, Thầy của tất cả chúng sanh trong Đạo Cao Đài là Chí Tôn, không có xác thân trong cõi hữu hình, nên nói là Sư hư vô.


Reo chuông thoát tục: Tiếng chuông của Đạo đánh lên ngân vang cho chúng sanh nghe để giục lòng họ sớm thức tỉnh, mà quay về với đường đạo đức, lo tu hành hầu thoát khỏi cảnh phàm tục đầy phiền não và đau khổ này.


Tuyệt sinh : Dứt đường sinh ra, nói khác đi là chấm dứt con đường sinh tử.


Đường sinh tử do từ Hán Việt “Sinh tử lộ ”, tức chỉ con đường luân hồi, nghĩa là sinh ra rồi chết, chết rồi lại chuyển kiếp để được sinh ra…Cứ thế mà tạo nên con đường sinh tử.


Tuyệt sinh là chấm dứt đường sinh tử luân hồi, tức là thoát tục vậy.


Phất cờ tuyệt sinh: Phất cao ngọn cờ Đạo để dìu dắt chúng sanh lần vào chơn pháp của Đạo mà tu hành hầu tuyệt dứt nẻo luân hồi sinh tử.


Câu 11: Đạo là hư vô, Thầy cũng là hư vô.


Câu 12: Đánh lên tiếng chuông , phất cao ngọn cờ Đạo để cảnh tỉnh và dìu dẫn chúng sanh thoát cảnh trần tục hầu dứt tuyệt luân hồi.


Đức Chí Tôn giáng cơ mở Đạo, mượn chức sắc Hội Thánh làm nên hình thể của Ngài nơi thế gian. Vì thế, chức sắc Hội Thánh phải là người đạo đức, có tâm ái vật ưu sinh theo Thánh đức háo sanh của Ngài mà gióng lên tiếng chuông Đạo, giương cao ngọn cờ cứu khổ để thức tỉnh và dẫn dắt chúng sanh vào đường Chơn đạo hầu thoát khỏi trầm luân, trở về với ngôi xưa vị cũ.



Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,


Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.


Nương dưới: Nương tựa vào.


Máy linh cơ tạo: Bộ máy linh hiển của Đấng Tạo hóa. Tức là sự xếp đặt, an bài một cách thiêng liêng của cơ Tạo.


Gươm huệ: Cây gươm hay cây kiếm trí huệ.


Trí huệ được ví như một lưỡi gươm (lưỡi kiếm) sắc bén, có thể chiến thắng được giặc thất tình lục dục, và có thể cắt đứt hết mọi phiền não trói buộc vào con người.


Trị xảo trừ tà : Trừng trị xảo trá, diệt trừ tà mị.


Câu 13: Cứ nương tựa theo sự biển chuyển của cơ Tạo hóa (Đức Chí Tôn).


Câu 14: Con xin dùng cây gươm trí huệ để trừng sự xảo trá, và tiêu trừ tà mị.



Cửa Địa ngục, chóng lánh xa,


Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.


Địa ngục : Nơi u tối nặng nề khổ sở dùng để giam cầm và trừng trị các tội hồn, gây nhiều ác nghiệp khi còn sống nơi dương thế.


Chóng lánh xa: Mau tránh ra xa.


Thánh thể : Hình thể Đức Chí Tôn tại mặt thế, đó là những vị chức sắc từ phẩm giáo hữu trở lên họp lại thành Hội Thánh. Nếu hiểu Thánh thể là chức sắc, phẩm tước của Hội Thánh từ phẩm Giáo Hữu trở lên thì quá hẹp, vì còn những bậc tu chơn hay hàng tín đồ có chơn linh cao trọng cũng có thể tu mà đạt pháp đặng. Như vậy Thánh thể phải hiểu theo nghĩa rộng, là hình thể của nền Chơn đạo, đó là những giáo pháp nhằm đưa chúng sanh về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Mượn hình Thánh thể: Mượn con đường Chơn Đạo lo tu tâm dưỡng tánh, lập công bồi đức mà đạt ngôi vị.


Cất nhà cõi Thiên: Xây dựng tòa nhà ở cõi Thiên. Ý nói tạo lập ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Câu 15: Mau xa lánh khỏi cửa vào Địa ngục.


Câu 16: Mượn con đường chơn đạo tu hành theo sự dẫn dắt của Chí Tôn để đạt ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

KINH NHẬP HỘI

Posted: 31/10/2014 in Kinh Thế Đạo

I.-KINH VĂN:

KINH NHẬP HỘI

Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,

Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,

Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.

Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,

Hai dạy răn cho biết tội tình.

Ba lo trị thế thái bình.

Cộng chung Pháp luật Thiên Đình chí công.

Các con vốn trong vòng Thánh thể,

Phép tu vi là kế tu hành.

Mở đường tích cực oai linh,

Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.

Đại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,

Diệt trí phàm: Hờn, giận, ghét, ganh.

Để tâm dưới ánh Chí linh,

Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.

Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,

Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời.

Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,

Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.

Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,

Nguyện Phật, Tiên dạy bảo Chơn linh.

Mạng danh Hội Thánh đã đành,

Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.

II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:

Kinh Nhập Hội cũng là một bài Kinh do Đức Hộ Pháp soạn ra, có nhờ Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại.

Kinh Nhập Hội là một bài Kinh dành cho chủ tọa đoàn và tất cả các người tham gia vào cuộc họp, cùng với đồng nhi tụng đọc trước khi bắt đầu phiên hội nghị, để cầu cho cuộc hội được thành công tốt đẹp.

Hội họp là một sinh hoạt thường xuyên trong tôn giáo Cao Đài, nhằm mục đích thảo luận chương trình hành đạo, tổng kết việc đạo cuối năm…

Ngoài ra, Đạo Cao Đài còn có tổ chức những phiên nhóm họp lớn như: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội, đây là ba hội lập quyền vạn linh, nhằm mục đích lập pháp, sửa đổi luật, kiểm soát các cơ quan Cửu Trùng Đài, tìm phương giúp Hội Thánh điều hành nền Đạo, mỗi ngày một phát triển tốt đẹp hơn.

Vì vậy, trước mỗi phiên nhóm đều có tụng đọc bài Kinh Nhập Hội này nhằm để cầu nguyện các Đấng Thiêng Liêng ban cho phiên họp được thành công tốt đẹp.

III.-CHÚ GIẢI:

Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,

Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, là nơi ngự của Đức Chí Tôn. (Xem chú thích ở câu 11 bài Kinh Thuyết pháp).

Chí Tôn cao ngự : Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự trên cao là tòa Bạch Ngọc Kinh nơi cõi Thiêng liêng.

Tây Phương 西 : Cực Lạc Thế Giới là một cõi do Phật A Di Đà chưởng quản. Cõi này ở về phía Tây đối với Ta Bà Thế giới, nên còn được gọi là Tây Phương Cực Lạc 西 .

Thiên điều : Luật pháp của Trời.

Câu 1: Đức Chí Tôn ngự trên tòa Bạch Ngọc Kinh cao vọi trên cõi Thiêng liêng.

Câu 2: Ở giữa là cõi Cực Lạc Thế Giới, có chư Phật nắm giữ Thiên điều.

Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,

Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.

Ngọc Hư: Tức Ngọc Hư Cung : Nơi ngự triều của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hư Cung cũng là nơi các Đấng Thiêng Liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chầu lễ Đức Chí Tôn và hội họp điều khiển cả Càn Khôn Thế giới. Nói cách khác, Ngọc Hư Cung là Thiên triều, là triều nghi của Đức Chí Tôn.

Lập triều trị dân : Xây dựng triều nghi để cai trị toàn thể Càn Khôn Thế Giới và tất cả chúng sanh.

Câu 3 và 4: Nơi Cung Ngọc Hư, các Đấng Thiêng Liêng họp triều đình để nắm quyền điều khiển Càn Khôn Thế Giới.

Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,

Hai dạy răn cho biết tội tình.

Nuôi nấng: Nuôi dưỡng.

Tinh Thần 精 神: Trái với thể chất, tinh thần là phần sáng suốt, Thiêng liêng trong con người. Nhờ nó người ta mới hiểu được điều phải trái, việc hay dở, nhờ có nó người ta mới linh hơn cả vạn vật và có một địa vị cao quí trong Vũ trụ.

Tinh thần được người ta gọi bằng nhiều tên, Đạo Cao Đài gọi Thiên lương , là cái phần sáng suốt tự nhiên do Chí Tôn ban cho con người; Nho giáo gọi Minh đức , hay Lương tri , hay Trực giác , tức là cái khiếu tri giác rất mẫn tiệp, có thể đạt ngay đến chân lý của các sự vật. Cái khiếu tri giác ấy do ở trong tâm của con người, là cái thần minh làm chủ tể tất cả những tư tưởng, tình cảm và những hành vi của con người.

Tinh khiết : Trong sạch, sạch sẽ.

Tinh thần tinh khiết : Tinh thần trong sạch.

Tinh thần là cái phần sáng suốt Thiêng liêng sẵn có trong con người chúng ta, tự nó đã thuần nhiên trong sạch, nhưng bởi nhập vào thể xác phàm phu, bị lôi cuốn vào đường nhơn dục, nên vọng động, mê mờ, trở thành ô trược không tinh khiết.

Muốn tinh thần tinh khiết, phải có một tư tưởng tinh khiết. Để cho tư tưởng tinh khiết thì phải giữ tâm hư tĩnh, không để cho vật dục che mờ cái phần sáng suốt tự nhiên, nên khi có việc gì cảm đến là ứng ngay được và biết rõ hết mọi lẽ.

Lòng của con người hư tĩnh bao nhiêu, thì trực giác càng mẫn huệ bấy nhiêu. Chính Hệ từ thượng trong Dịch đã nói lên điều đó: Không nghĩ gì, không làm gì, im lặng không động, đến lúc cảm thì thông suốt được mọi duyên cớ trong thiên hạ. (Vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố , , , ).

Tâm hư tĩnh tức là không để tư tâm tư ý xu hướng về lợi hại, thiệt hơn, cầu lấy thú vui riêng mình, mà làm cho cái phần Thiêng liêng là Thiên lương bị mê mờ, không thấy rõ cái Thiên lý lưu hành trong Vũ trụ.

Để cầu xin các Đấng ban bố cho những điễn quang thiêng liêng để nuôi nấng tinh thần tinh khiết thì trước nhứt chúng ta phải giữ cái xác thân trong sạch.

Trong Phương luyện kỷ của Đức Hộ Pháp đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo có dạy về luyện thân và luyện trí như sau:

Ẩm thực tinh khiết.

Tư tưởng tinh khiết (trình bày ở trên).

Tin tưởng mạnh mẽ nơi Chí Tôn, Phật Mẫu.

Thương yêu vô tận.

Ấy là chìa khóa mở của Bát Quái Đài tại thế.

Dạy răn: Dạy dỗ theo đường đạo lý và răn cấm những hành vi tội ác.

Tội tình : Những việc làm trái đạo lý, phạm pháp, bị pháp luật trừng trị. Những hành vi hung ác, tạo nhiều tội lỗi, sẽ thọ ác nghiệp.

Câu 5: Các Đấng Thiêng Liêng trong Ngọc Hư Cung có nhiệm vụ thứ nhứt là dìu dắt chúng sanh theo đường đạo đức để nuôi nấng cái tinh thần được tinh khiết.

Câu 6: Nhiệm vụ thứ hai là dạy dỗ con người nên người đạo đức và răn cấm những hành vi tội lỗi.

Tâm là phần sáng suốt, nhưng vì ngoại vật làm nhiễu loạn ngũ quan của con người, cho nên cái tâm bị mờ tối đi, không biết rõ các vật, bởi thế thường sinh ra sai lầm, tội lỗi.

Tội tình càng gây ra bao nhiêu, càng tạo nhiều nghiệp báo bấy nhiêu, nên khiến cho con người phải đắm chìm trong luân hồi sanh tử mãi.

Vì thế, các bậc Thánh nhân hay các Tôn giáo đều tìm cách ngăn ngừa những hành vi hung ác, gây nên các tội tình.

Theo Cao Đài, con người vì vô minh, bị thất tình lục dục sai khiến, mới gây ra nhiều hành vi tội ác, nên có thể nói thế gian là nơi chứa nhiều tội lỗi.

Đức Chí Tôn vốn là Đấng Từ bi bác ái, thương yêu sanh chúng, nên xá tội cho muôn loài trong thời mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này.

Người tu hành phải biết điều nào có phương hại cho người, tạo thành tội ác mà luật ngăn cấm hay các Đấng dạy răn không nên làm. Nếu lỡ như có tội, phải biết ăn năn chừa lỗi, cải tà qui chánh, lo tu tâm sửa tánh thì Chí Tôn sẽ tha thứ hết các thứ tội tình và oan nghiệt như Kinh Giải Oan viết:

Chí Tôn xá tội giải oan,

Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ vong.

Ngoài ra, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy cũng có nói: “Thầy lại nói, buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi hết kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.

Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.

Ba lo trị thế thái bình.

Cộng chung Pháp luật Thiên Đình chí công.

Trị thế : Trị đời, tức là làm cho đời được yên ổn.

Thái bình : Rất bình yên. Đời rất yên ổn và đất nước thạnh trị.

Pháp luật : Những điều khoản của một nước hay một Tôn giáo định ra để làm qui tắc hành vi cho con người.

Đạo Trời đất hay đạo người thường dùng lễ để sửa cải thiên hạ, song nếu có những người hay ương ngạnh, không chịu theo giáo hóa thì tất nhiên phải có pháp luật để răn cấm, ngăn ngừa những kẻ gây việc bạo ngược. Điều này Tuân Tử có viết như sau: Phàm hình pháp là cái gốc của thiên hạ, ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ điều ác là để răn những điều chưa xảy ra. (Phàm pháp hình, nhân chi bản, cấm bạo ố ác, thả trưng kỳ mạt dã , , , ).

Thiên đình : Triều đình ở Thiêng Liêng, hay chỉ cõi Thiêng Lieng Hằng Sống.

Chí công : Rất ngay thẳng, rất công bình.

Mọi hành vi, mọi sự việc ở nơi thế gian đều có tính cách tương đối: Từ pháp luật, luân lý đạo đức, sự ứng xử của con người đối với nhau chỉ có công bình một cách tương đối, vì phán xét bị thiên kiến, bị giới hạn của thời gian và không gian. Còn sự công bằng nơi cõi Thiêng Liêng mới thực sự là tuyệt đối. Chính vì thế, nơi Tòa Thánh Tây Ninh, vừa bước vào cửa có đấp một bàn tay sơn màu trắng nắm cán cân, tượng trưng bàn tay Chí Tôn cầm cân công bình đo tội phước chúng sanh. Do vậy, Đức Chí Tôn được gọi là Đấng Chí Công.

Câu 7: Nhiệm vụ thứ ba của các Đấng Thiêng Liêng nơi Ngọc Hư Cung là tạo cảnh thái bình thạnh trị ở thế gian.

Câu 8: Nơi Thiên đình thi hành pháp luật rất nên công bình.

Các con vốn trong vòng Thánh thể,

Phép tu vi là kế tu hành.

Vốn trong vòng: Nguyên ở trong phạm vi.

Thánh thể : Hình thể Đức Chí Tôn, tức là Hội Thánh Cửu Trùng Đài.

Vi : Nhỏ nhít, rất nhỏ.

Phép tu vi: Hay tu vi pháp , phương pháp tu sửa từ những điều xấu, ác nhỏ nhặt nhứt, không bỏ bất cứ một lỗi nhỏ nào.

Thói thường, người ta thường khinh dể những điều nhỏ nhít: Việc nhỏ nhặt người ta thường không thèm để ý đến, hay không muốn làm đến, tỷ như việc làm phước, thấy điều nhỏ không đáng làm, nên bỏ qua; còn việc dữ, tưởng lỗi mọn, vẫn cứ làm. Điều này Kinh Sám Hối có dạy khuyên ta như sau:

Việc lành chẳng khá bỏ qua,

Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

Hoặc:

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

Vì chưng tích thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

Vua Chiêu Liệt đời nhà Hán có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ làm.(Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi 勿 以 善 小 而 不 為 ,勿 ).

Câu 9: Các con vốn ở trong vòng thánh thể của Đức Chí Tôn.

Câu 10: Phương thức tu sửa cho nên người tốt đẹp là từ những việc nhỏ, đó là kế của người tu hành.

Mở đường tích cực oai linh,

Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.

Tích cực : Làm việc gì mà vụ tiến thủ thì gọi là tích cực, trái lại thì gọi tiêu cực.

Oai linh: Hay uy linh : Oai nghiêm và linh hiển.

Cậy phương: Dựa vào phương thức, nhờ vào phương cách.

Thuyết giáo : Thuyết giảng giáo lý, hay giảng giải giáo pháp.

Kinh chơn: Hay chân kinh , kinh ghi chép đúng theo chơn lý của chư Phật, Tiên. Chân kinh còn có nghĩa Chơn giáo, Chánh giáo.

Câu 11: Khai mở ra con đường tích cực và oai nghiêm linh hiển.

Câu 12: Nhờ vào phương thức thuyết giảng về chơn lý, truyền bá mối Đạo Trời để độ nhơn sanh qui về chánh Đạo.

Đức Chí Tôn mở Đạo trong thời hạ nguơn mạt Pháp này bằng huyền diệu cơ bút. Lúc đầu tiên, Ngài đến với các thiên sứ bằng văn chương thi phú, lần hồi Ngài dìu dắt vào đường đạo đức và dẫn đển khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi.

Đức Chí Tôn là cha chung của chúng sanh và chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Vì vậy những giáo pháp của các Đấng, Ngài qui lại thành một mối để chính mình Ngài mở Đạo cứu đời trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, như lời Thánh giáo đã dạy: “Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa và qui nguyên phục nhứt Ngũ chi Đại Đạo là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo”.

Những Kinh Luật, Giáo lý của nền Đại Đạo đều do các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho:

– Luật Pháp: Có Tân luật và Pháp chánh truyền.

– Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng được tuyển tập thành Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

– Kinh gồm Thiên Đạo và Thế Đạo Kinh.

Như vậy, Giáo pháp và Kinh luật của nền Đại Đạo này đều do Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho chúng sanh, đó thực là một nền Chơn giáo, có đầy đủ Chơn pháp và Chơn kinh.

Đại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,

Diệt trí phàm: Hờn, giận, ghét, ganh.

Đại Từ Phụ : Đấng cha lành lớn hơn hết.

Đây là một từ mà các tín đồ Cao Đài dùng để gọi Đức Chí Tôn, Đấng có công sanh hóa ra muôn loài vạn vật, có lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến, nuôi nấng và dìu dẫn một cách đồng đều, tựa như một vị cha lành có lòng tha thiết, chắt chiu lo cho các con còn bé nhỏ: “Các con ôi! Thầy lấy đức háo sanh mà dìu dắt các con, chẳng khác nào như kẻ làm cha nâng niu dạy dỗ một trẻ bé trông cho mau trưởng thành, hầu lưu danh truyền nghiệp cho có tên tuổi với đời”(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Dìu dẫn: Dẫn dắt, tức là Chí Tôn dùng Thánh giáo để dạy dỗ chúng sanh biết đường chơn lý và theo đó mà dẫn dắt về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Diệt : Tiêu diệt, làm cho mất đi.

Trí phàm: Hay phàm trí : Trí của người phàm phu, tức là trí tầm thường của kẻ chưa dứt phiền não, còn luyến ái tham dục, chìm đắm trong đường danh nẻo lợi, chưa giác ngộ.

Câu 13: Cầu xin Đại Từ Phụ ra ơn dẫn dắt cho con.

Câu 14: Được sáng suốt để diệt những thói hờn giận ghét ganh trong trí não phàm tục của con.

Thánh trí là cái trí sáng suốt phát ra từ Thiên tánh mà Chí Tôn ban cho con người. Người có Thánh trí là người đã dứt được vô minh, phiền não, hết mê lầm, tức là cái trí của chư Phật, Tiên và chư Bồ Tát.

Thánh trí sở dĩ bị mê mờ là bởi phàm trí che lấp, nếu chúng ta diệt được phàm trí thì đương nhiên Thánh trí sẽ hiện rõ, mà Phật gọi là trí bát nhã, nhờ đó làm nên con thuyền để đưa con người đến bờ giác ngộ.

Để tâm dưới ánh Chí linh,

Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.

Tâm : Tâm không phải là khối thịt. Phàm chỗ nào có tri giác, ấy là tâm, như tai mắt: biết trông, biết nghe, biết đau, biết mỏi, cái tri giác ấy được gọi là tâm.

Trần Hi Di Tiên Sinh nói về chữ tâm như sau:

Tam điểm như tinh tượng,

Hoành câu tự nguyệt tà;

Phi mao tùng thử đắc,

Tố Phật dã do tha.

Nghĩa là:

Trên có ba chấm như hình ba vì sao,

Nét cong phía dưới giống như hình vòng cung của mảnh trăng tà.

Vạch lông ra thì thấy được tâm,

Thành Phật cũng bởi tại tâm ấy mà nên.

Theo Dương Minh, người là tâm của Trời đất muôn vật. Tâm là chủ của Trời đất muôn vật. Tâm tức Trời, nói tâm là nói cả Trời đất muôn vật rồi (Nhân giả thiên địa vạn vật chi tâm dã, tâm giả thiên địa vạn vật chi chủ dã. Tâm tức thiên, ngôn tâm tắc thiên địa vạn vật giai cử chi hĩ , , ).

Theo Cao Đài, Tâm hay Lương tâm là khiếu Thiêng liêng của Đức Chí Tôn ban cho con người, như lời Thánh giáo đã dạy: “Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức”.

Tâm này sáng suốt thanh tịnh tuyệt đối, thường trụ bất biến và bao trùm vũ trụ. Cái tâm ấy đồng với bản thể vũ trụ, nên có tính bất nhị: không có sự phân chia nhĩ ngã, nội ngoại, đó là các tâm đại bình đẳng của Chí Tôn mà bên Phật gọi là tâm Bát nhã hay tâm chân như. Bởi thế, Đức Diêu Trì Kim Mẫu hằng khuyên chúng sanh cố gắng trau giồi chữ Tâm:

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,

Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.

Tâm thành ắt đạt đường tu vững,

Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.

Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,

Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.

Đường tâm cửa thánh dầu chưa vẹn,

Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Trái với tâm Phật là tâm chúng sanh, một loại tâm đầy ô nhiễm, bất tịnh, phiền não và tham dục. Tâm chúng sanh được phát sinh ra từ tư duy chấp ngã, khiến trở nên vô minh, mê loạn, nhân đó mới bị đau khổ trong luân hồi sanh tử.

Chí linh : Rất linh thiêng, linh hiển cùng cực. Đây chỉ Đức Chí Tôn.

Tường : Rõ, biết.

Chơn lý : Cái lẽ chơn thật, cái lẽ tự nhiên, xác thật, không biến đổi theo thời gian và không gian.

Chánh văn : Văn chương, nghĩa lý ngay thẳng, chơn thật.

Mục đích của văn chương đối với cổ nhân là “văn dĩ tải Đạo” ( Lấy văn chở Đạo). Vì thế, tất cả các sách của Thánh hiền xưa đều viết ra một cách ngay thẳng, chơn thật, không ngoài việc giáo hóa cho con người trở nên chơn chất hiền lương.

Câu 15: Con xin hướng trọn tâm theo ánh Thiêng liêng của Đức Chí Tôn.

Câu 16: Nhờ ánh Thiêng liêng ấy soi tỏ cho con rõ biết chơn lý và thấu suốt lẽ ngay thật.

Để tâm theo Đức Chí Tôn tức là hướng tâm theo đường tu niệm. Hễ tu thì phải học, tu và học là cái thể và cái dụng của việc tu. Cầu kinh, lễ bái, niệm Phật là cái thể, cố tâm học tập, thực hành theo lời dạy của Chí Tôn dạy trong Kinh, ấy là cái sở dụng.

Tu là thực tập theo lời Kinh đã dạy mà áp dụng vào công phu tu tập để chuyển hóa tự thân, xa lìa khổ não. Do vậy người tu cần phải tìm hiểu, học hỏi nghĩa lý của Kinh như sách xưa có dạy rằng: Tụng kinh giả minh Phật chi lý , : Tụng kinh là cần hiểu rõ giáo lý của Phật mà đem ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày của mình, rồi tự tháo gỡ mọi phiền não, kiến chấp đang trói buộc tâm tư của mình, đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và giải khổ trong tương lai.

Trực ngôn quyết trong Nho giáo cũng có dạy rằng: Tạo chúc cầu minh, độc thư cầu lý: Minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ chiếu nhơn tâm , : , . Đốt đuốc để soi sáng, đọc sách là cầu đạo lý: Ánh sáng để soi nhà tối, đạo lý để soi lòng người.

Tóm lại, muốn soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn, hành giả phải cố công tìm hiểu, học hỏi ý nghĩa trong kinh sách hầu có một nhận thức sáng suốt trên đường tu học.

Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,

Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời.

Cơ chuyển thế 轉 世 機: Chuyển thế là thay đổi, xoay chuyển lại đời. Cơ chuyển thế là một thời kỳ hay một cơ quan làm thay đổi thế giới, từ loạn lạc ra thạnh trị, từ xấu xa ra tốt đẹp.

Thời Tam Kỳ Phổ Độ là thời Hạ nguơn mạt Pháp, con người vì danh lợi mà đua tranh giành giựt, tương tàn tương sát lẫn nhau, tội ác dẫy đầy không kể luân thường đạo lý. Đạo Cao Đài khai mở, đem công bằng và thương yêu ban rải khắp mọi nơi và lấy tôn chỉ Nho tông chuyển thế để đem những tinh hoa của Nho giáo xây dựng một cảnh đời đạo đức, thanh bình và an lạc. Đó là thực hiện cơ chuyển thế của Đức Chí Tôn.

Thánh ân : Ân huệ của Đức Chí Tôn.

Xây đổi: Xây chuyển và biến đổi.

Cơ đời: Một bộ máy của thế gian.

Sự sinh hoạt nơi thế gian giống như một bộ máy, nó chuyển điều hòa về tinh thần vật chất thì bộ máy hoạt động được dài lâu, nếu nó rối loạn thì bộ máy phải bị ngừng, phải chuyển đổi lại cho thích hợp. Bộ máy đời (cơ đời) hiện nay đang hướng về nền văn minh vật chất, quên đi đạo đức tinh thần, đưa nhơn loại vào vòng tranh đấu, giành giựt, sắp đến chỗ diệt vong. Vì thế, Đức Chí Tôn mới mở Đạo kỳ ba này lấy Nho tông để chuyển thế, nhằm đem lại một thế giới Đại đồng thánh đức.

Câu 17: Cơ chuyển thế trong thời kỳ này gặp nhiều nỗi khó khăn.

Câu 18: Nhờ ân huệ của Đức Chí Tôn thương xót chúng sanh mà xoay chuyển cho cơ đời để đưa nhơn loại vào đời Thánh đức.

Thực vậy, nếu cơ đời chỉ vì văn minh vật chất, không có tinh thần đạo đức để kềm chế thì nhơn loại sẽ bị đưa đến nạn diệt vong. Trong Đại Thừa Chơn Giáo có viết: “Đến Hạ ngươn, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn gớm ghê thì nhơn loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ mưu tà, kế sâu bẫy độc, thiệt là khốc liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự nhiên, càng tranh đấu mới càng tấn hóa. Ngặt càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm, nếu tranh đấu thét phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt”.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn cũng có dạy: “Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rữa phai hạnh đạo. Thế thì nhơn loại, nếu chẳng có mối huyền vi để nhắc chừng tâm tánh, sẽ vì mồi danh lợi, miếng đỉnh chung mà cắn xé giựt giành, giết hại lẫn nhau cho đến buổi cùng đường, rồi vì hung bạo ấy mà cõi dinh hoàn này chẳng còn sót dấu chi của nhân vật cả”.

Mối huyền vi của Đức Chí Tôn tức là nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vậy.

Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,

Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.

Thuận nhơn tâm : Thuận theo lòng người.

Thuận Trời: Tức thuận Thiên lý, thuận theo lòng Trời.

Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời: Phương ngôn thường nói: Ý dân là ý Trời, như vậy thuận theo lòng dân tức là thuận theo lòng Trời, hay nói cách khác, thuận nhân tâm ắt thuận Trời. Theo Mạnh Tử: Thuận theo lẽ Trời thì được còn, mà nghịch với lẽ Trời thì phải mất (Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong , ).

Kinh Vô tự: Hay Vô tự Kinh : Kinh không có chữ. Trong bài Kinh Đệ Ngũ Cửu có câu:

Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình,

Khai Kinh Vô tự đặng nhìn quả duyên.

Vô tự là một quyển Kinh ở Cung Ngọc Diệt Hình, trong quyển kinh ấy không có chữ viết. Khi Chơn hồn đối diện với quyển kinh thì sẽ hiện rõ ra tên họ, cùng với những hành vi thiện ác trong kiếp sanh của Chơn hồn nơi cõi thế gian.

Ở đây, Kinh Vô tự hiểu theo nghĩa bóng như là những lời thuyết giáo, thuyết pháp.

Trong thời Hạ nguơn, nhơn loại mãi đua theo văn minh vật chất, nên con người có xu hướng trọng thực tiển, ít để tâm đến đạo đức tinh thần trong kinh sách. Vì vậy, khi đạo Cao Đài khai mở, Chí Tôn thường dạy các bậc tiền khai hãy đem lời Thánh giáo Chí Tôn truyền đạt cho sanh chúng bằng những đàn thuyết đạo. Ngài nói: “Dầu cho sắt đá cỏ cây mà nghe Thánh ngôn của Thầy nơi con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người”. Đây là Vô tự kinh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, một phương cách rất thuận lợi cho việc phổ độ thời bấy giờ.

Thiện duyên : Duyên lành, duyên may, duyên phần.

Người có duyên lành (duyên may) là người gặp được một thời kỳ đại ân xá của Đức Chí Tôn, và mở ra nền Đại Đạo. Đức Lý Đại Tiên có dạy: “Mở một mối Đạo chẳng phải là thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng phải dễ”.

Trong Thánh thi cũng có câu:

Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,

Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.

Nghĩa là:

May mắn gặp được Cao Đài truyền nền Đại Đạo,

Duyên lành gặp lúc Ngọc Đế ngự xuống trần gian.

Sở dĩ chúng ta được hưởng cái duyên lành (tức có duyên phần) là do kết quả của việc làm đạo đức từ trong kiếp trước. Do vậy, kiếp nầy ta cũng lo tạo lập công đức để dành cho kiếp lai sinh. Thánh giáo Chí Tôn dạy: “Thầy vì đức háo sinh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Đại Đạo Tam Kỳ trong lúc hạ nguơn nầy mà vớt sinh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết Đạo tức là có duyên phần, ai vô Đạo tức là số chịu hình khổ luân hồi”.

Câu 19: Thuận theo lòng người thì ắt là thuận theo lòng Trời.

Câu 20: Lời thuyết đạo như Vô tự kinh có thể cứu giúp cho những người đầy đủ duyên lành.

Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,

Nguyện Phật, Tiên dạy bảo Chơn linh.

Ơn Trên: Đồng nghĩa với Thiên ân, ơn Trời. Đây chỉ Đức Chí Tôn.

Yên trí não: Trí não được an ổn, không lo lắng, không phiền muộn, không giận hờn…

Chơn linh : Một Linh hồn, một điểm Linh quang của Chí Tôn ban cho con người và muôn vật.

Câu 21: Cầu xin Đức Chí Tôn giúp cho con trí não được an ổn.

Câu 22: Nguyện cầu chư Phật Tiên dạy bảo Chơn linh của chúng con.

Mạng danh Hội Thánh đã đành,

Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.

Hội Thánh : Một chánh thể của Đạo Cao Đài, gồm các chức sắc đối phẩm hàng Thánh, tức là từ Giáo Hữu hoặc tương đương trở lên.

Trong bài thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp ngày 5/3/1928 có định nghĩa Hội Thánh như sau: “Hội Thánh tức là đám Lương sanh của Thầy tom góp lại làm một. Cả Lương sanh ấy, Thầy đã dùng quyền thiêng liêng dạy dỗ, trước un đúc nơi lòng một khiếu từ bi cho tâm địa có mảy mún tình ái vật ưu sanh theo Thánh đức háo sanh của Thầy, dùng làm lợi khí phàm tục để độ rỗi người phàm tục”.

Nhục thể : Cơ thể bằng xương thịt.

Hình Chí Tôn: Hình thể tại thế của Chí Tôn, đó là Hội Thánh của Đạo Cao Đài.

Trong bài thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp nêu trên cũng có giải thích như sau: “Những Lương sanh ấy phải thế nào hội hiệp lại nhau làm một, mà làm ra một xác thân phàm của Thầy thì Thầy mới có hình thể trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy, hầu tránh cho khỏi hạ trần như mấy kỳ trước vậy”.

Hình thể Chí Tôn tại thế này, ấy là Hội Thánh vậy.

Câu 23-24: Mệnh danh là chức sắc Hội Thánh thì phải xây lưng đâu cật, chung tay phàm mà xây dựng nên hình Chí Tôn hay Chánh thể của nền Đại Đạo.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

KINH THUYẾT PHÁP

Posted: 31/10/2014 in Kinh Thế Đạo

I.-KINH VĂN:


Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,


Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.


Dìu đời với sức không kham,


Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.


Đại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,


Trợ giúp con đặng lập nên công.


Muốn cho thiên hạ đại đồng.


Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.


Nguyện lời nói biến hình bác ái,


Nguyện chí thành sửa máy tà gian.


Nguyện cho khí tịnh thần an,


Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.


Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,


Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.


Cảm quang diêu động tâm tu,


Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Kinh Thuyết Pháp do Đức Hộ Pháp đặt ra, có cầu Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại.


Kinh Thuyết Pháp dùng để vị chức sắc thuyết pháp và đồng nhi tụng đọc trong một đàn thuyết giảng giáo lý cho các tín đồ nghe và học hỏi.


Thuyết pháp còn được gọi là thuyết đạo hay thuyết giảng giáo lý. Giáo lý của một tôn giáo được hiểu như là một phương tiện hướng dẫn thực tập của chư tín đồ, tựa như chiếc bè đưa người tu tập qua sông, mà không phải như một chủ thuyết hay một giáo điều triết học.


Sở dĩ con người cứ mãi đau khổ trong cuộc đời này là vì trí huệ thường hằng, thanh tĩnh của mình bị vô minh che lấp, nên giáo pháp của Đức Chí Tôn nhằm mục đích đem đến ánh sáng trí huệ để biết chọn con đường giải thoát.


Giáo lý là một Đạo học, nghĩa là không thể dùng trí mà phải dùng cả tâm để hiểu và sống với nó. Thánh giáo Đức Chí Tôn không phải chỉ là một đạo để học, mà phải là cái đạo để hành, để tập với cái điều mình đã hiểu, đã ngộ được.


Chúng ta là người tu học cần phải học hỏi và thực tập một cách khôn khéo, đừng cố chấp để không bị lầm lạc. Trong Kinh Viên giác dạy: Tất cả những giáo lý giảng giải trong Kinh sách đều là ngón tay chỉ mặt trăng. Chân lý coi như mặt trăng, giáo lý ví như ngón tay chỉ về mặt trăng, như thế ngón tay cũng như giáo lý chỉ là những phương tiện mà thôi, chính mặt trăng mới là cứu cánh mà ta cần đạt tới. Đừng lầm ngón tay với mặt trăng, tức là giáo lý với chân lý.


Ngoài ra chúng ta cần nên biết, kẻ hành giả chỉ mượn giáo lý để đưa qua sông mê, khi đã đến bờ giác rồi thì hành giả phải buông bỏ chiếc bè để bước lên giác ngạn. Đó là không chấp pháp.


Người thuyết giảng giáo lý cũng cần lưu tâm một điều là vào thời Hạ ngươn mạt Pháp, Đức Chí Tôn mở cơ tận độ nên giáo pháp được coi như những mầm giống thiện lương, đem rải khắp cho toàn sanh chúng, mình là người mang những hạt giống đó gieo truyền lại, thì chính mình cũng phải là hạt giống tốt, có thể sinh sôi nẩy mầm được. Người thuyết pháp phải học hỏi, tự sửa mình truớc rồi mới dạy người như lời Mạnh Tử đã nói: Mình cong queo thì không thể nào sửa cho người ngay thẳng được (Uổng kỷ giả, vị hữu năng trực nhân giả dã , ). Người thuyết Đạo có được một đức độ và một tinh thần thương yêu sanh chúng thì mới có một khả năng:


Cảm quang diêu động tâm tu,


Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.



III.-CHÚ GIẢI:



Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,


Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.


Trường : Chỗ nhiều người tụ họp.


Phổ tế : Phổ là rộng, khắp; tế là đưa qua đò, cứu giúp. Phổ tế là cứu giúp tất cả chúng sanh khắp mọi nơi. Phổ tế đồng nghĩa với Phổ độ .


Trường phổ tế: Hay cơ quan phổ tế hay cơ quan phổ độ là một cơ quan của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nhiệm vụ phổ hóa chúng sanh, lo phần Đạo của Đạo, hay nói cách khác là đem Đạo vào đời để dìu dắt sanh linh nương về với Đạo đặng siêu rỗi tội tình hầu tiến đến phẩm vị trọn lành.


Khó khăn lắm nỗi: Nhiều nỗi khó khăn.


Từ khi khai Đạo, Chí Tôn truyền mở các đàn cơ và thành lập Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để phổ độ chúng sanh, song việc phổ độ này không được rộng khắp và gặp nhiều nỗi khó khăn như sau:


– Phải làm sao chọn được những vị Chức sắc thực sự phế thân hành Đạo, lãnh nhiệm vụ châu lưu cùng khắp vào chốn thôn quê sằn dã để đem chơn lý Đạo mầu thức tỉnh người đời hồi tâm hướng thiện.


– Phải thuyết phục một số người là con cái Đức Chí Tôn nhưng vì còn yếu ớt đức tin nên còn đứng ngoài vòng cửa Đạo.


– Phải tìm cách giác ngộ một phần đông số người còn đang mê mẩn trong vòng vật chất, mà xem rẻ rúng mối Đạo Trời, thành thử vẫn mịt mờ trong tăm tối.


Chính do những nỗi khó khăn đó, Đạo luật năm Mậu Dần 1938 mới thành lập cơ quan phổ tế và qui định cho cơ quan này là dẫn dắt người Đời vào trường học Đạo của Trời cho mau chóng, đặng sớm tầm con đường siêu rỗi cho nhơn loại.


Cậy: Nhờ vào, dựa vào, nương vào.


Thánh tâm : Cái tâm chí thánh, cái tâm rất Thiêng liêng, tức là cái tâm thiện lương, chơn chánh.


Tánh phàm: Hay phàm tánh : Cái tánh của kẻ phàm phu, tánh này thường xu hướng theo vật dục, nên có tính hẹp hòi ích kỷ.


Câu 1: Trường phổ tế chúng sanh gặp nhiều nỗi khó khăn vất vả.


Câu 2: Cậy nhờ vào những bậc có lòng chí thánh để sửa đổi tánh phàm tục của con người.


Tâm của kẻ phàm phu cũng do Trời phú cho, nhưng vì con người phàm phu thường xu hướng theo vật chất, nên tâm bị lôi cuốn theo, khiến cho tâm bị động. Khi tâm động thì phát xuất ra ý, ý mới hiệp với thức của thân ngũ uẩn mà có khuynh hướng dục vọng, đó là đầu mối của vô minh.


Người có Thánh tâm là người biết giữ cho tâm được thanh tịnh, chiêu minh, tức là giữ được bản thể của nó là tánh, do Trời phú cho, trở về với nguồn cội là Đại Linh quang Thượng Đế. Vì thế tâm sẽ trở nên thần minh, làm chủ nhục thân, hành động theo Đạo tự nhiên của Trời đất.


Do vậy, những bậc Thánh tâm là những người có đức háo sanh như Thượng Đế đầy lòng thương yêu, nên mong muốn sửa đổi cho tất cả chúng sanh những tâm phàm tánh tục trở lại với Thiên tánh.



Dìu đời với sức không kham,


Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.


Dìu đời: Dìu dắt người đời.


Kham : Chịu được, chịu nổi.


Quyền : Tạm thay, tạm dùng đỡ.


Nho giáo chủ trương làm việc phải chấp kinh tùng quyền nghĩa là vẫn theo đạo thường, nhưng cũng có lúc quyền biến.


Kinh là đạo dùng khi thường, Quyền đạo dùng khi biến.


Thuyết pháp : Giảng giải giáo pháp của một Tôn giáo, bao gồm thuyết giáo lý, thuyết kinh luật, thuyết đạo đức…


Cơ quan : Bộ máy quan trọng trong một tổ chức.


Câu 3: Sức dẫn dắt người đời vào cửa Đạo không thể nào làm nổi.


Câu 4: Nên phải mượn phương tiện thuyết pháp để làm cơ quan dìu dắt con người về đường đạo đức.


Muốn độ một con người trong thời Hạ nguơn này rất nên khó khăn, vì tâm ý mỗi con người mỗi khác nhau. Lại nữa, gặp những người có xu hướng theo vật chất, mãi mê về danh lợi thì có thời giờ đâu mà đọc kinh sách, nên dù có muôn kinh ngàn sách hay, họ cũng không đọc, mà không đọc thì làm sao hiểu được nguyên lý hay giáo pháp để tu hành.


Con người muốn tu thì phải học. Học để biết việc tu. Muốn học thì phải đọc ở các Kinh sách của Tam giáo. Ngoài ra, khi Đạo Cao Đài được khai sáng, thì có những bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ giáo hóa, do Hội Thánh ban hành, nhưng phần nhiều các tín đồ đã nhập môn, không để công tìm hiểu, đến nỗi Thánh giáo Chí Tôn phải than: “Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm tục của các con.


Nhiều đứa lại còn mờ hồ, đã thờ Thầy mà chưa chắc ý rằng thờ đặng chi, và mở Đạo có ích gì?


Than ôi! Đã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?”.


Do sự lơ đểnh việc học hỏi về Kinh sách của chư môn đồ, Thầy đã dạy Hội Thánh mỗi đàn lệ phải thuyết Đạo để nhắc nhở và dìu dẫn chúng sanh về với đường đạo đức. Thánh giáo dạy: “Các Giáo hữu phải lo lắng về phần thuyết Đạo cho kịp mỗi đàn lệ, phải trích ra một bài Thánh ngôn dạy về đạo đức và đọc cho chúng sanh nghe. Như vậy thì lời Thánh giáo như còn vẳng bên tai các môn đệ, để giục bước đường của chúng nó chẳng sụt sè vậy”.



Đại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,


Trợ giúp con đặng lập nên công.


Đại Từ Phụ : Đấng cha lành. Đấng sinh hóa ra vạn linh, có lòng Đại từ Đại bi thương yêu con cái của Người là chúng sanh: Đó là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.


Hồng ân : Hồng là to lớn. Hồng ân là ân huệ to lớn do Đức Chí Tôn ban bố cho vạn linh.


Trợ : Giúp đỡ.


Câu 5: Cầu xin Đức Đại Từ Phụ ban bố hồng ân rưới khắp cho toàn chúng sanh.


Câu 6: Và giúp cho con được lập nên công nghiệp.


Trong việc tu hành, muốn được giải thoát khỏi kiếp sinh nơi trần lao giả tạm này để về với ngôi xưa vị cũ thì người tu hành phải nhờ vào hai nguồn lực: Tự lực và tha lực. Tự lực là sức mạnh của mình, nhờ vào năng lực của chính mình để đạt đến giải thoát. Tha lực là sức mạnh từ bên ngoài, hay nương vào sức thiêng liêng của các Đấng để trợ giúp.


Tuy vậy trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng sanh đều sẵn thiên tánh, nên sự phân biệt tự lực hay tha lực cũng chỉ là phương tiện trong việc tu mà thôi. Nương nhờ tha lực cũng cần đến tự lực, tự lực là điều kiện cần thiết cho việc tu, có quyết tâm, cố gắng mới mong đạt thành như lời Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: “Nếu các con không tự lập ở cõi thế này, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng”.



Muốn cho thiên hạ đại đồng.


Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.


Thiên hạ : Dưới Trời, chỉ nhơn loại, chỉ toàn thế giới.


Đại đồng : Có nghĩa là hết thảy đều như nhau. Đây chỉ một xã hội lý tưởng của Nho giáo, trong đó nhơn loại đều là anh em, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Mọi người đều sống bình đẳng, bác ái, chung nhau làm, chung nhau ăn, cuộc sống thanh bình, thánh đức.


Trong Kinh Lễ, thiên Lễ vận chép rằng Khổng Tử buồn bã, thở dài về việc Vua nước Lỗ cúng tế không đủ lễ, rồi nói với môn đệ là Tử Du rằng:


“Thực hành đại đạo cùng với các bậc anh tuấn đời Tam đại thì Khâu này không làm được, nhưng vẫn có chí đó.


Ở thời Đại đạo thực hành thì thiên hạ là của chung, người ta chọn kẻ hiền năng, giảng điều tín thực, sửa điều hòa mục. cho nên người ta không riêng thân cha mẹ mình, không riêng yêu con mình, kẻ già được nuôi dưỡng trọn đời, trai tráng có chỗ dùng, trẻ con được săn sóc đến trưởng thành; người ta thương kẻ góa, con côi, người già cô độc; người tàn tật được chu cấp, con trai có phận, con gái có nơi chốn để nương cậy. Người ta ghét của bỏ phế trên đất mà lượm lên, chứ không chủ ý lo lợi riêng cho mình. Vì vậy những ngón cơ mưu không thi thố được, kẻ trộm cắp, người làm loạn, làm giặc không nổi lên, cho nên cửa ngõ không cần đóng. Đó là thời Đại đồng.


(Đại đạo chi hành dã, dữ Tam đại chi anh, Khâu vị chi đãi dã nhi hữu chí yên.


Đại đạo hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục. Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấu hữu sở trưởng, căng quả cô độc phế tật giả giai hữu sở dưỡng, nam hữu phận, nữ hữu quy. Hóa ố kỳ khí vu địa dã, bất tất tàng vu kỷ; lực ố kỳ bất xuất ư thân dã, bất tất vị kỷ. Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bế. Thị vị Đại đồng.


, , , .


, , , . , , 使 , , , , , . , , , . , , , ).


Cứu khổ : Cứu giúp người thoát khỏi cảnh khổ.


Cứu giúp người thoát khỏi cảnh khổ bằng các hành động hay vật chất, cũng không thể làm cho người hết khổ. Nguyên nhân khổ đau, theo Phật là do bởi vô minh, do không hiểu thấu lý duyên khởi, lý vô thường, lý vô ngã của các pháp.


Do vậy, chủ trương cứu khổ của các Tôn giáo là dạy cho chúng sanh phá được vô minh, khiến cho họ giác ngộ theo đường tu tập để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Đó mới thực là một phương pháp giải khổ.


Dụ : Dỗ dành, dùng lời nói khéo khuyên người ta nghe theo mình, lấy đạo nghĩa khuyên người ta làm thiện.


Thương sanh : Là chúng sanh, bách tính, nhơn dân.


Câu 7: Để cho nhơn loại được sống trong một xã hội Đại đồng,


Câu 8: Lấy lẽ Đạo ra thuyết giảng hầu cứu khổ nhơn sanh và khuyến dụ lòng lành của nhơn sanh.


Thế gian là một biển khổ, con người sống trong cõi ấy, kẻ thì lặn hụp, người thì chìm đắm dưới những lằn sóng xao động giữa biển khổ mênh mông, bát ngát.


Giáo lý Cao Đài không đi xa thực tế với đời sống của con người thực tại. Sự mở Đạo của Đức Chí Tôn trong thời hạ nguơn này là mong muốn cho tất cả chúng sanh, dù đang mang theo cái nghiệp duyên tốt hoặc xấu do hành vi lành hoặc dữ của kiếp quá khứ tạo nên, ở kiếp này phải tự giải khổ bằng cách đền trả quả cũ, một mặt không gây nghiệp mới, mặt khác tự bản thân cố gắng tu thân lập hạnh và bồi công tạo đức để mọi người sống nơi thế gian đau khổ này đều hướng thiện, biết cư xử với nhau có tình nghĩa, có đạo đức, biết thương yêu nhau như anh em một nhà, con một cha, hầu tất cả mọi người có đời sống ấm no hạnh phúc, xã hội thái bình thạnh trị. Đây là mục tiêu cải tạo một xã hội đại đồng trên thế gian của nền Đại Đạo.



Nguyện lời nói biến hình bác ái,


Nguyện chí thành sửa máy tà gian.


Nguyện lời nói: Mong muốn cho lời nói.


Biến hình : Biến đổi thành hình thức.


Bác ái : Lòng thương yêu rộng lớn, yêu thương tất cả mọi người, mọi vật.


Từ bi bác ái là lòng thương yêu tất cả chúng sanh của chư Phật, Tiên.


Ở Đạo Nho, Đức Khổng Tử cũng dạy lấy sự yêu thương làm trọng, sách Không Tử Gia ngữ có chép: Một hôm vua Cung vương nước Sở làm mất một cây cung, các quan xin vua cho người đi tìm, vua nói rằng: Vua nước Sở mất cung, người nước Sở nhặt được, có mất đâu mà đi tìm. Có người đem chuyện ấy thuật lại cho Khổng Tử, Ngài nói rằng: Tiếc thay cái ý vua còn hẹp! Phải chi nói: Người rơi mất cung, có người nhặt được, hà tất phải nói là người nước Sở.


Khổng Tử là người có lòng bác ái, nên ý Ngài muốn nói con người ở đâu cũng là người, việc gì phải lấy giới hạn một nước mà phân biệt nhau. Lòng nhân ái của con người phải bao trùm khắp thiên hạ, chứ không riêng cho một xứ nào, một nước nào.


Theo triết lý Cao Đài, con người sống ở thế gian, ai cũng bẩm thụ điểm Linh quang của Chí Tôn, cũng thọ cái Chơn thần của Đức Phật Mẫu, nên tất cả chúng sanh đều được xem như là anh em một nhà, chung một cha là Thượng Đế. Do vậy, mọi người phải biết thương yêu, biết lấy điều nhơn nghĩa mà cư xử với nhau, đó là lòng bác ái.


Chí thành : Hết lòng thành thật.


Trong việc xử thế của con người điều trước tiên phải có lòng chí thành. Chí thành là thể hiện sự hết sức thành thật của chính cá nhân mình đối với mọi người trong xã hội.


Mạnh Tử nói về đức Chí thành như sau: Thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm được thiên hạ, thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả. (Thành giả, thiên chi đạo dã, tư thành giả, nhân chi đạo dã. Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã , , , , , , ).


Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy về lòng chí thành như sau: Chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đải trong đời và trong Đạo. Dù kẻ phú quí đến bực nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.


Máy: Do chữ Cơ là cái máy, cái mối phát sinh ra.


Tà gian : Tà là cong vạy, gian là dối trá. Tà gian là giả dối, không chính đáng, không thành thật.


Máy tà gian: Cái mối sinh ra gian tà xảo trá.


Trong Hán Việt có từ Cơ tâm : Cái lòng biến trá khéo léo, giống như máy móc, tâm con người ẩn bên trong những mưu mô xảo quyệt để đối xử nhau, giết hại lẫn nhau, không chút thương yêu, không lòng đạo đức. Đấy là bản tâm con người trong thời hạ nguơn mạt Pháp, trong thời xu hướng theo văn minh vật chất, mà quên đi luân thường đạo đức.


Câu 9: Xin nguyện cho lời nói gây nên lòng bác ái.


Câu 10: Xin nguyện đem lòng chí thành để cải sửa mối tà vạy, gian xảo.



Nguyện cho khí tịnh thần an,


Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.


Khí tịnh : Khí con người trong sạch. Khí là một trong tam bửu, đây là Chơn thần của con người.


Thần an : Thần của con người được yên tĩnh, không xao động, là một trong tam bửu, thần là Chơn linh của con người.


Thính giả : Người nghe. Đây là người nghe thuyết pháp, hay nghe thuyết giảng giáo lý.


Chơn tu : Tu hành một cách chơn chánh. Tu theo chánh pháp, không cầu lợi danh, không theo mê tín, dị đoan.


Câu 11: Cầu xin cho khí (Chơn thần) được trong sạch, thần (Chơn linh) được yên ổn không xao động.


Câu 12: Nguyện xin các Đấng Thiêng Liêng hộ cho thính giả thông rõ chơn lý mà tu hành.



Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,


Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.


Bạch Ngọc: Tức Bạch Ngọc Kinh : Một tòa Thiên các, nơi ngự của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.


Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có bài thi mô tả Bạch Ngọc Kinh như sau:


Một tòa Thiên các ngọc làu làu,


Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.


Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,


Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.


Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,


Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.


Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,


Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.


Ngôi Bạch Ngọc Kinh bằng ngọc màu trắng cao vọi vọi, có cổng Huỳnh Kim Khuyết bằng vàng ròng xa mù mù như hai câu trong bài Ngọc Hoàng Kinh:


Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,



Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.



Các Đấng đương chầu Bạch Ngọc: Các Đấng Thiêng Liêng đang chầu Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.


Thông minh : Thiên tư sáng suốt, trí óc sáng láng.


Lảu thuộc: Thuộc làu làu, học hiểu thông suốt.


Văn từ : Văn chương chữ nghĩa.


Câu 13: Nguyện với các Đấng Thiêng Liêng đang chầu Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.


Câu 14: Giúp cho con được sáng suốt để học thông suốt văn từ trong kinh sách.



Cảm quang diêu động tâm tu,


Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.


Cảm quang : Cảm là mối cảm xúc trong lòng, quang là ánh sáng. Cảm quang là ánh sáng hào quang (điễn quang) của chư Thiêng Liêng gây cảm xúc hay nói cách khác tác động vào con người.


Diêu động : Hay dao động là lay động.


Diêu động tâm tu : Làm thức tỉnh tâm tu hành.


Khai : Khai mở.


: Có thể hiểu theo hai nghĩa: Cơ hội, hay cơ quan, cơ chế.


Giải thoát : Cởi bỏ những trói buộc để thoát khỏi luân hồi sinh tử.


: Nhà giam người có tội, người bị án.


Phong Đô : Địa ngục, A tỳ, cõi giam cầm và trừng trị các tội hồn gây nhiều ác nghiệp lúc còn sống nơi thế gian. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát làm giáo chủ cõi Phong Đô, nên Ngài được gọi là Phong Đô Đại Đế.


Theo Phật, Địa ngục là một trong tam ác đạo, là cõi đầy khổ não, nơi thác sinh của chúng sanh đã tạo nhiều ác nghiệp (Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh).


Theo Cao Đài, Phong đô hay Địa ngục chỉ là nơi để cho các Chơn hồn giải thân định trí, là một cái quan ải mà các Chơn hồn khi qui Thiên phải ngang qua đó, nơi đó được Đạo Cao Đài gọi là Âm quang.


Câu 15: Cầu xin các Đấng Thiêng Liêng cảm hóa, thức tỉnh tâm tu hành.


Câu 16: Mở ra một cơ hội giải thoát chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử và mở cửa Phong Đô để thả các tội hồn trong thời ân xá của Chí Tôn.


Khi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được khai sáng, Chí Tôn ra lệnh đại ân xá kỳ ba cho tất cả chúng sanh, truyền đóng cửa Địa ngục, mở cửa Thiên đường mà các bài Kinh Cao Đài có viết:


Vô Địa ngục, vô quỉ quan,


Chí Tôn đại xá nhứt tràng qui nguyên.


(Phật Mẫu Chơn Kinh)


Hoặc:


Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,


Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.


(Kinh Giải Oan)


Nơi Bà Bát Nương Diêu Trì Cung giảng về cõi Âm quang có nói rằng: khiếm khuyết ánh sáng thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay là Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu.


Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong đô, Địa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để các Chơn hồn giải thân định trí”.


Bà Thất Nương lại dạy rằng: “Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang”.


Như vậy, hai câu kinh thuyết pháp trên cho ta hiểu rằng: Đạo Cao Đài đem cái Giáo pháp, hay chơn lý ra thuyết giảng, nếu người nghe hiểu được lẽ thật mà lo tu hành thì đương nhiên coi như mở tù Phong đô để được giải thoát. Hay nói rõ hơn, thuyết pháp là dùng lời nói để giác ngộ người đời, có nghĩa là mở tù Phong đô cho chúng sanh vậy.





(1) Vị thuyết pháp và đồng nhi đọc.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA


I.-KINH VĂN:

KINH TỤNG KHI VỢ QUI LIỄU

Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,

Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.

Âm dương đôi nẻo chia phân,

Túy sơn vân mộng mới gần đặng nhau.

Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,

Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

Thấy cơn tử biệt não nùng,

Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.

Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,

Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.

Phụ phàng chi bấy Hóa công

Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.

Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,

Kẻ còn người mất ai sầu hơn ai?

Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

Hay là lạc bước nguồn Đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng,

Chịu góa thân tuyết đóng song thu.

Bước Tiên nàng đã ngao du,

Đoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.

Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,

Đoái tưởng người chưa thoát trầm luân.

Ngước trông níu ngọn phất trần,

Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.

Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,

Chén ly tình là lệ ái ân.

Dầu chi cũng nghĩa chí thân,

Khối tình còn có một lần đấy thôi.

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:

Bài kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu do Bà Đoàn Thị Điểm, một Nữ sĩ Việt Nam, cũng là một vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngoài ra, vào năm 1933, Bà còn giáng cơ ban cho Đạo Cao Đài một tác phẩm rất có giá trị, đó là Nữ Trung Tùng Phận, một cuốn sách nhằm mục đích giáo hóa các nữ tín đồ Cao Đài trở nên người hiền đức, giữ vẹn đạo nhơn luân, theo đúng tôn chỉ Nho tông chuyển thế mà Đức Chí Tôn đã đề ra trong thời Hạ ngươn mạt Pháp.

Theo Bà, đạo vợ chồng là đầu mối của nhơn luân nên phải biết thương yêu nhau, ăn ở nhau có nghĩa thủy chung:

Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,

Đạo nhơn luân gầy sống của đời.

Dầu cho non nước đổi dời,

Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.

Ơn nghĩa của người phụ nữ với chồng con rất sâu nặng, là một giềng mối để kế thừa hương lửa Tổ tông, là khởi đoan của nền nhơn luân đạo đức, nên trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu, bà viết:

Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng.

Hay trong bài Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu bà cũng viết:

Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

Trong bài thuyết đạo về Bảo thủ thuần phong mỹ tục, Đức Hộ Pháp cũng cho rằng: Đạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã hội. Nhiều gương xưa tích cũ được nêu lên để chỉnh đốn đạo nhơn luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau để lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ chồng ông Châu Công, Ngài là Tể tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quí.

Chính vì ơn “tùng phu sửa trấp nâng khăn” và ơn “nối Tông tổ” của người vợ quá cố, Bà Đoàn Thị Điểm mới giáng cơ ban cho bài Kinh Tụng khi Vợ Qui Liễu nhằm tỏ lòng tiếc thương và đau khổ của người chồng đã mất đi một vị hiền phụ.

III.-CHÚ GIẢI:

Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,

Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.

Tơ tóc: Do thành ngữ “xe tơ kết tóc”, chỉ duyên nợ kết nghĩa nên vợ chồng.

Xe tơ: Buộc sợi tơ vào chơn hai người kết nên vợ chồng.

Lấy tích Vi Cố đi chơi đêm gặp một ông già ngồi dưới bóng cây, có cầm một quyển sách nơi tay và có túi đựng chỉ đỏ. Vi Cố hỏi, thì Ông già ấy đáp: Ta là Nguyệt Lão, sổ này dùng để biên nhơn duyên của người đời, còn chỉ đỏ này để buộc chơn cho nên vợ nên chồng. Vi Cố mới hỏi nữa: Còn nhơn duyên của tôi có biên vô sổ này không? Liền đó Ông dở sổ ra xem, rồi nói: Số nhà ngươi sau này lấy con gái mụ ăn mày, đang ngồi xin ăn trước chợ đó. Vi Cố cho đó là nhục, bèn xách dao ra chợ chém đứa con nhỏ một lát dao, máu chảy dầm dề. Chàng tưởng con bé đã chết, bèn trốn đi ở xứ khác.

Nhưng duyên Trời đã định, chạy đâu cho khỏi. Sau Vi Cố tưởng rằng lấy được con quan, không dè chừng hỏi rõ lại thì cũng là con của mụ ăn mày, trước kia nhờ ông quan tại triều, đi tuần vừa tới đó, gặp đứa bé do mụ ăn mày bỏ, đem về nuôi làm con, sau gả cho Vi Cố.

Vi Cố mới biết rằng duyên vợ chồng, Nguyệt Lão đã xe tơ thì không làm sao trốn đâu cho khỏi đặng.

Kết tóc: Do chữ kết phát : Theo tục lệ đời nhà Hớn, trong đêm hợp cẩn, vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau. Do vậy, Ông Tô Thức viết hai câu: Kết phát vi phu phụ, ân nghĩa lưỡng bất nghi , : Kết tóc làm chồng vợ, ơn nghĩa trọn đôi đường.

Trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,

Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

Trọn đạo: Vẹn tròn đạo nghĩa.

Tùng phu : Theo chồng. Đây là một trong ba đạo của người phụ nữ thời xưa, gọi là đạo Tam tùng .

Điều này được Đức Khổng Tử dạy như sau: Đàn bà thì nương dựa ở người, cho nên không có phép tự chuyên làm lấy một mình, mà có đạo tam tùng là: Còn ở nhà thì theo lịnh cha, có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con (Phụ nhân phục ư nhân dã, thị cố vô chuyên chế chi nghĩa. Hữu tam tùng chi đạo: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử , . : , , ).

Sửa áo nâng khăn: Chỉnh khăn áo cho chồng, ý nói người vợ có bổn phận lo lắng, săn sóc cho chồng.

Bổn phận người đàn bà xưa còn được gọi là cầm khăn lược, nâng thúng chổi (chấp cân trất, phụng cơ trửu , ).

Câu 1 và 2: Tưởng đến việc xe tơ kết tóc cùng nhau nên duyên chồng vợ thì phải sống theo chồng và lo lắng săn sóc cho chồng.

Âm dương đôi nẻo chia phân,

Túy sơn vân mộng mới gần đặng nhau.

Âm Dương đôi nẻo: Hai con đường Âm cảnh, Dương gian của người chết và kẻ còn sống.

Chia phân: Phân ly và chia cách nhau.

Túy sơn vân mộng : Là tên một bài phú của một Đấng Thiêng Liêng không đề danh (Vị tường danh thị ) giáng cơ ban cho vào khoảng năm 1930. Nội dung bài phú kể lại của một vị quan vào tiết trung thu tháng tám, năm Long Đức thứ tư, thả thuyền tới chùa Non Nước dạo chơi:

Năm Long Đức thứ tư,

Tiết trung thu tháng tám.

Chàng khi ấy:

Thôi chầu Thiên sứ,

Rảnh việc công sai.

Thinh thinh một chiếc thuyền lan, noi dòng Xích bích,

Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế, dực bèn Thương Lang.

Trải hang Nghê qua cửa Thần Phù,

Dựa bãi Hạc tới chùa Non Nước.

Thấy cảnh non xanh nước biếc, khiến lòng chàng bâng khuâng, mượn rượu để giải khuây, rồi ngủ quên dưới mái hiên chùa, liền mộng thấy một nàng con gái:

Rỡ rỡ sen đưa gót ngọc,

Dịu dàng tay hé rèm châu.

Tóc làu làu mây sở mấy từng,

Quần dợn dợn sóng tương đôi lớp.

Mặt hoa ái ngại dường Hớn Tiên Nương tách dặm xuống lầu Tây,

Mày liễu ủ ê tợ Đường Minh Phi đeo sầu ải Bắc.

Chàng hỏi ra mới biết đó là người vợ hiền đã chung sống được năm năm vừa mới chết:

Chừ lâu ta mới hỏi chừng,

Sau trước nàng bèn bày tỏ.

Thiếp hổ thân bồ liễu,

Ngày dựa cửa trâm anh.

Vâng ngọc âm từ chốn Thiên đình,

Xuống hạ giới làm con Tướng quốc.

Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt Lão

Cửa vàng trộm sánh Lang quân.

………………………………………………..

Duyên mới vừa thỏ bạc ngang thềm,

Kể đã đặng năm năm ân ái,

Điềm phúc ứng dê xanh qua cửa,

Bỗng rẽ phân hai ngả Sâm thương.

Trong giấc mộng nàng kể lể sự tình, rồi lạy từ tạ để trở về Tiên cảnh, chàng mới biết là:

Động phủ hội tam sinh,

Huỳnh lương thành nhứt mộng.

Máy Trời đất không không có có,

Đạo vợ chồng ái ái ân ân.

Than ôi!

Mộng huyển bào ảnh đồ vi thị xuân,

Không sắc sắc không hà tu thậm giả.

Tuy là rẽ âm dương đôi ngã,

Cũng chẳng qua thành kỉnh một lòng.

Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông

Sanh như ký, tử như qui, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc ứng.

Bèn đem rượu cúc rót ba tuần,

Rấp mượn bút huê đề nhứt luật.

Tóm lại, “Túy Sơn Vân Mộng” là một bài phú kể lại nỗi niềm thương nhớ của người chồng đối với vợ hiền đã chết, mong cùng gặp gỡ nhau trong giấc chiêm bao.

Câu 3: Hai đường Âm cảnh và Dương gian đã chia phân đôi vợ chồng

Câu 4: Nỗi niềm thương nhớ của người chồng đối với vợ hiền, chỉ còn có thể gặp gỡ nhau trong giấc mộng mà thôi.

Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,

Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

Phòng đào: Hay Đào phòng : Phòng của người con gái. Đây chỉ phòng của người vợ.

Trong văn chương, người ta thường ví người con gái có nhan sắc là Hoa đào hay Đào hoa do ở Lệ Tình tập có kể lại câu chuyện như sau:

Thôi Hộ là một thi gia đời Đường, nhân ngày lễ thanh minh đi thăm mộ, ghé vào xin chén nước trà của người con gái đương đứng dưới cửa ngõ bên cây đào. Người con gái mời chén trà và có ý nhìn Thôi Hộ bằng một vẻ hữu tình. Năm sau đi lễ thanh minh, lại ghé thì khôngh thấy người con gái ấy. Thôi Hộ bèn đề vào gốc đào một bài thơ:

Khứ niên kim nhật thử môn trung,

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Dịch

Cửa này năm ngoái thấy bên trong,

Vẻ thắm đào tươi ánh má hồng.

Nay chẳng thấy người đâu đó tá?

Hoa đào còn cợt với gió đông.

Qua năm thứ ba, Thôi Hộ đi thanh minh lại ghé lần nữa, cửa nhà đóng bên trong có tiếng khóc. Hỏi thăm mới được biết rằng người con gái ấy đã vì bài thơ của Hộ đề, mà đau tương tư, nay mới chết và chưa liệm. Hộ xin vào thăm, đến bên tử thi gọi to lên, người chết bèn sống lại.

Vì thế, người ta thường ví người con gái đẹp là Hoa đào hay Đào hoa.

Lạnh ngắt: Rất lạnh lẽo, không còn hơi ấm.

Tàn y : Áo người chết còn để sót lại, ở đây chỉ áo người vợ đã chết.

Khi người vợ chết, người chồng thường thấy lại những kỷ vật của vợ mà khiến lòng thêm đau buồn, nhứt là nhìn lại tấm gương soi hay mảnh tàn y, vua Tự Đức thấy lại những kỷ vật mà khóc Bằng Phi với những câu rất thống thiết như sau:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,

Xếp tàn y lại để dành hơi.

Nghi dung : Dung mạo bề ngoài.

Câu 5: Khi bước chân đến phòng của vợ lòng cảm thấy không khí vắng tanh, lạnh ngắt.

Câu 6: Nhìn mảnh áo còn sót lại dường như nhắc nhở đến bóng dáng và gương mặt của nàng.

Thấy cơn tử biệt não nùng,

Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.

Tử biệt : Ly biệt nhau lúc chết.

Não nùng: Sầu não đớn đau.

Hương thề: Hay Hương thệ : Lời thề nguyền trước bàn hương án. Ngày xưa mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên hay phối ngẫu với nhau, thường bày hương lửa cúng kính để thề hẹn, cho nên gọi là Hương thề.

Hương thề tắt ngọn: Nhang thề đã tắt, đây chỉ việc đôi vợ chồng có người đã chết.

Câu 7: Cơn ly biệt của người còn kẻ mất thảm não khôn cùng.

Câu 8: Lời thề xưa đã dứt (nhang đã tắt ngọn), nàng chết đi, duyên nợ cam chịu lạnh lùng.

Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,

Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.

Lời nguyền buổi trước: Lời thề nguyền lúc ban đầu, tức là lúc mới thương yêu nhau.

Thẹn non sông: Thẹn với núi và sông.

Thời xưa, trai gái yêu nhau thường “thệ hải minh sơn ” nghĩa là thề non hẹn biển với nhau. Họ chỉ vào núi sông mà thề hẹn.

Lời thề hẹn đó của đôi vợ chồng đã gãy, vì người vợ đa ra đi vĩnh viễn, khiến cho phải thẹn mặt với núi sông.

Chưa ngớt tình nồng: Tình yêu nồng nàn chưa dứt.

Câu 9: Càng nhớ đến những lời thề nguyền buổi trước.

Câu 10: Vì tình yêu thương hãy còn nồng nàn nên phải thẹn mặt với núi sông.

Phụ phàng chi bấy Hóa công?

Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.

Phụ phàng: Làm cho đau khổ không chút xót thương.

Chi bấy: Tiếng xưa, cũng như nói chi lắm thế! hay chi nhiều thế!

Hóa công : Thời xưa người ta cho rằng Trời là một ông thợ tạo ra thế giới vạn vật, nên gọi Trời là Thợ tạo, Tạo hóa, Tạo công.

Câu 11: Phụ phàng chi lắm, Hóa công có hiểu thấu cho không.

Câu 12: Lòng cắt lòng ví như người thương yêu chết đi, làm sao mà không đau đớn, xót xa.

Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

Nối Tông tổ: Nối dõi Tổ tiên, phụng thờ Từ đường.

Nghĩa trọng : Ân nghĩa rất nặng nề.

Biết bao nghĩa trọng: Biết bao nhiêu là nghĩa nặng nề.

Cơ nghiệp : Cơ đồ sự nghiệp.

Tang du : Sách Tàu xưa truyền rằng ở góc biển Tây có cây tang du, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói “tang du vãn ảnh ”.

Lạc nhật tang du : Mặt trời lặn về phương tây (tang du là phương tây), ý chỉ cảnh của người già.

Mộng tang du: Mơ ước sống đến tuổi già.

Câu 13: Người vợ sinh con để kế thừa Tông tổ, thờ phụng Từ đường, ơn nghĩa đó biết bao nhiêu là nặng nề.

Câu 14: Sự nghiệp tạo lập ra còn lưu lại đây là có ý sống cùng nhau đến chuổi ngày già.

Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,

Kẻ còn người mất ai sầu hơn ai?

Mập mờ: Ánh sang trăng mờ mờ.

Nhắn nguyệt đêm thu: Đêm thu nhắn hỏi chị Hằng, chị Nguyệt.

Câu 15: Vào đêm thu, ánh trăng mập mờ soi chiếu, xin nhắn hỏi chị Hằng rằng:

Câu 16: Người còn sống và người mất đi, ai là người sầu não hơn ai?

Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

Dạ đài : Như tuyền đài , âm đài đều là từ dùng để chỉ cõi Âm, tức Âm phủ.

Khách Dạ đài : Người khách ở chốn Âm phủ, chỉ người đã chết.

Có tưởng: Có tưởng nhớ đến.

Tướng : Hình tướng, hình dáng bên ngoài.

Câu 17: Người sống ở Dương gian nhắn với khách ở Âm cảnh, có còn tưởng nhớ đến không?

Câu 18: Hình bóng của nàng hiện bây giờ hiển hiện ở nơi nào?

Hay là lạc bước nguồn Đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

Lạc bước: Bước đi lạc, đi lạc đường.

Nguồn đào: Do chữ Đào nguyên hay Đào hoa nguyên , chỉ cõi Tiên (Xem chú thích ở Kinh Khi Về).

Anh hào : Tài giỏi và khí phách hơn nguời. Đây chỉ người đàn ông, tức người chồng.

Đeo mang: Đeo đẳng và mang lấy.

Câu 19: Hay là nàng đã bước vào cõi Thiêng Liêng.

Câu 20: Để lại cho người phải chịu đeo mang nhiều nỗi niềm thương nhớ.

Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng,

Chịu góa thân tuyết đóng song thu.

Quạnh quẽ: Hiu quạnh vắng vẻ.

Đèn tàn một bóng: Một mình một bóng trước ngọn đèn sắp tàn.

Trong Cổ thi có câu:

Thời văn tái nhạn thanh tương hoán,

Sa song chỉ hữu đăng tương bạn.

Nghĩa là: Khi nghe chim nhạn bay ngoài ải gọi nhau,

Là khi nơi song the chỉ có ngọn đèn tàn làm bạn mà thôi.

Đây là tả tình cảnh đêm khuya trước ngọn đèn tàn của người chồng một mình một bóng.

Góa thân: Thân góa bụa. Từ Hán Việt gọi người đàn ông vợ chết gọi là Quan , người đàn bà chồng chết ở vậy gọi là quả .

Tuyết đóng song thu: Bên cửa sổ vào mùa thu, tuyết lạnh rơi và đóng thành băng.

Câu 21: Một mình một bóng ngồi cô đơn quạnh quẽ bên chiếc đèn tàn leo lét.

Câu 22: Cam chịu cảnh góa thân dưới cánh cửa sổ buồn rầu, tuyết rơi lạnh lẽo.

Bước Tiên nàng đã ngao du,

Đoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.

Bước Tiên: Bước vào cõi Tiên.

Ngao du : Đi chơi hay đi dạo khắp nơi.

Đoái tình: Tưởng tình thương yêu.

Ôm cầu: Có hai cách hiểu về điển tích này, nếu ta hiểu:

* Chữ cầu là cây cầu (kiều ) thì lấy điển ôm trụ cầu, do tích như sau:

Vĩ Sinh là người nước Lỗ, hẹn với người tình gặp nhau ở dưới cầu. Đúng giờ, Sinh ra chỗ hẹn mà chờ đợi. Nước dưới sông càng lúc càng lớn, mà người tình vẫn không tới, Vĩ Sinh cứ ở dưới cầu, ôm vào trụ cầu mà đợi. Nước ngập thì chịu chết, chớ không chịu tránh chết, bỏ chỗ hẹn với người tình.

Kẻ ôm cầu: Chỉ người chồng giữ mối tình chung thủy.

* Chữ Cầu là trái cầu hay tú cầu , tức quả cầu bằng gấm thêu, dùng để các nàng công chúa hoặc con các quan kén chồng.

Vua Vũ Đế nhà Hán, có Công chúa vừa tuổi lấy chồng, vua bèn truyền lịnh các vị vương tôn công tử xa gần, hay các anh hùng hào kiệt khắp mọi nơi biết và tập trung về để Công chúa tuyển lựa phu quân. Người nào nhận được quả tú cầu do Công chúa gieo xuống thì được nhà vua gả Công chúa cho và phong làm Phò mã.

Kẻ ôm cầu chỉ người chồng.

Khóc duyên: Khóc cho mối duyên tình gãy đổ.

Câu 23: Nay bước chơn nàng đã dạo chơi nơi miền Tiên cảnh.

Câu 24: Nàng có đoái tình mà thương nhớ đến người chung thủy với mối duyên bẽ bàng.

Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,

Đoái tưởng người chưa thoát trầm luân.

Nhập miền: Đi vào cõi.

Cực Lạc : Cõi Tây phương Cực Lạc hay Cực Lạc Thế giới còn gọi là Cực Lạc Quốc, An Lạc Quốc là cõi của Đức A Di Đà Phật.

Trầm luân : Chìm đắm trong luân hồi biển khổ.

Câu 25: Hay là nàng giờ đây đặng đi vào miền Cực Lạc.

Câu 26: Nàng có đoái tưởng đến người chồng chưa thoát khỏi trầm luân nơi biển khổ.

Ngước trông níu ngọn phất trần,

Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.

Phất trần : Như phất chủ , là một bửu vật có pháp thuật rất huyền diệu của Thái Thượng Lão Quân.

Phất trần là một cây chổi Tiên dùng để quét bụi hồng trần, tức là khử sạch hết tất cả trược khí và phàm tánh của con người để đem con người trở về thiên tánh. Về mặt thiêng liêng, phất chủ được kết thành bởi những điễn khí của các vị Tiên, có năng lực rửa sạch, trau luyện Chơn thần trở nên trong sạch thanh khiết.

Nợ nần oan gia: Các món nợ nần và oan gia nghiệt chướng.

Câu 27 và 28: Ngước trông lên nàng nhờ nắm lấy cây phất trần, đó là một cây chổi Tiên dùng để quét sạch các món nợ nần và oan khiên nghiệt chướng ở cõi phàm trần.

Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,

Chén ly tình là lệ ái ân.

Dâng mảnh tâm: Dâng lên tấm lòng.

Của lễ: Lễ phẩm, tức là phẩm vật dùng làm lễ cúng tế.

Ly tình : Mối tình ly biệt.

Lệ ái ân : Giọt nước mắt khi tưởng nhớ đến lúc vợ chồng yêu thương nhau.

Câu 29: Tấm lòng thành xin dâng lên để làm lễ phẩm cúng tế nàng.

Câu 30: Chén rượu của mối tình biệt ly cũng là dòng nước mắt khóc than vì thương nhớ nàng.

Dầu chi cũng nghĩa chí thân,

Khối tình còn có một lần đấy thôi.

Nghĩa chí thân : Tình nghĩa rất thân thiết.

Khối tình : Tình yêu tha thiết giữa trai gái, khi chết đi, tình yêu cũng không tan, nên gọi là khối tình.

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:

Nợ tình chưa trả cho ai,

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Theo quyển “Thành ngữ điển tích” của Diên Hương thì từ Khối tình do điển tích sau đây:

Trong tình sử có kể lại một người con gái có tình với một người lái buôn. Anh này đi mãi không về, nàng ở nhà thương nhớ anh, đau tương tư rồi chết. Đem nàng đi táng thì thịt xương sau này đều chảy ra thành nước, duy còn lại một khối, đập không nát. Sau anh lái buôn về, ôm khối đó mà khóc, nước mắt chảy dính vào thì khối đó liền ra nước. Đó là khối tình.

Có sách cũng cho rằng Khối tình lấy từ điển tích trong truyện Trương Chi và Mỵ Nương.

Trong Kiến Văn Lục của Võ Nguyên Hanh (dịch giả Đàm Duy Tạo) có kể lại “TRUYỆN TÌNH Ở THANH TRÌ” giống như điển tích trên và truyện Trương Chi Mỵ Nương:

Nguyễn Sinh ở Thanh Trì, vẽ mặt tuấn tú khác thường, mồ côi cha từ thuở nhỏ. Lúc trẻ, Sinh có đi học, nhưng nhà nghèo, không theo học được đến cùng. Làng ở ven con sông nhỏ, nhà Sinh vốn vẫn làm nghề lái đò, nên Sinh cũng tập chèo chở. Bọn lái đò đều hát hay, Sinh nghe lóm mà bắt chước hát, chỉ vài tháng đã học hết khóe hay của họ. Những khi sớm gió mát, tối trăng trong, Sinh gõ mạn thuyền mà hát lên, ai nghe thấy cũng phải lắng tai.

Phú ông họ Trần, nhà ở trên bờ bên hữu sông, có cô gái chưa chồng, nghe tiếng Sinh hát thích lắm, mới đứng trông cửa sổ dòm trộm, thấy vẻ mặt tuấn tú của Sinh, nàng nhìn mãi không bỏ qua được. Một hôm nàng ngầm sai con ở đưa tặng Sinh một chiếc khăn vuông và giục cho người đến làm mối.

Sinh bàn với mẹ. Mẹ nói: “Nhà mình thì nghèo thế, nhà người ta thì giàu thế, cách nhau xa quá, ước mong càn thế nào được”.

Sinh nói: “Nhưng đó là tự ý cô ta muốn lấy con kia mà!”

Mẹ mới sắm đồ chạm mặt và nhờ bà hàng xóm đi ướm trước với Phú ông, nhưng ông không gả. Bà kia cố nài và khen mãi dung mạo Sinh thật hiếm có. Phú ông giận nói: “Cái anh chàng vừa chèo đò vừa hát luôn miệng ấy chứ gì! Tôi biết lắm rồi! Chỉ nỗi con tôi xấu xí quê mùa lắm, không đáng lấy một người chồng bảnh bao như thế. Vậy xin bà về từ chối dùm cho!”.

Bà kia ra về. Ông quát lên nói theo: “Nhà người ta sang trọng thế nầy, con gái người ta nõn nà thế kia, khi nào lại có thằng rể lái đò! Sao con mụ mối ngu quá thế”.

Bà hàng xóm về kể rõ chuyện. Mẹ Sinh hổ thẹn, mắng con mãi. Sinh nói: “Lão ấy khinh người, chẳng qua chỉ cậy nhiều tiền đó thôi. Ta đây thử bỏ cái nghề lái đò nầy, xem làm được giàu có không!”. Rồi Sinh chào mẹ ra đi.

Cô gái thấy cha không bằng lòng, thất vọng lắm, nhân lúc nhà vắng, lấy ngầm hai trăm lạng vàng, sai người đưa tặng Sinh để làm lễ cưới. Khi được tin Sinh đã tức giận ra đi trước mất rồi, không biết đâu mà tìm, nàng ngấm ngầm đau đớn tâm thần, dần dà thành bịnh, thân thể gầy yếu, trong bụng kết hòn lại như cục đá, thuốc thang chạy chữa mãi không khỏi, được một năm thì chết. Lúc sắp tắt nghỉ, dặn lại cha rằng: Trong bụng con tất có vật gì lạ, sau khi con chết, nên hỏa táng mà xem nó thế nào”. Cha y lời, khi lửa tắt rồi, bới đống tro than, được một vật to bằng cái đấu, đỏ tươi như phấn yên chi, không phải ngọc, không phải đá, trong sáng như gương, dùi nện, búa bổ đều không vỡ, trong có hình anh lái đò tựa mái chèo mà hát. Phú ông nghĩ nhớ lại việc trước, mới ngờ con gái vì tương tư chàng kia mà chết, nhưng hối không kịp nữa, bèn cất khối ấy vào hộp gỗ mà để trên bàn thờ cô.

Hồi trước, lúc Sinh ra đi, trơ trọi một thân lên Cao Bằng, vào nương nhờ quan Trấn Tướng làm người giúp việc trong buồng giấy, vì hát hay, được ngài yêu quí. Được hơn một năm, khi túi đã hơi nhiều tiền, mới tùy vật giá lúc rẻ lúc đắt mà mua chứa hay bán ra để lấy lãi. Sau vài năm nữa, tích tụ được hơn ba trăm lạng vàng, bụng bảo dạ: Số vàng này đủ làm vui lòng cái lão tham tiền ấy rồi!”. Sinh bèn thu xếp về quê.

Về đến nhà, nghe nói cô gái đã chết rồi, Sinh mới sửa lễ sang viếng. Làm lễ xong, Ông mời ngồi, Sinh xin cho xem cục đá, Ông đem hộp giở ra cho coi, Sinh cầm xem mà khóc, nước mắt rơi vào cục đá, cục đá bỗng tan loãng ra, nhỏ xuống đầm đìa cả vạt áo Sinh, loang lổ hóa vết máu tươi. Sinh cảm tình nàng, thề không lấy ai nữa.

Câu 31: Dầu sao vợ chồng chung sống và cư xử với nhau rất nên thân thiết.

Câu 32: Khối tình yêu thương của chàng đối với nàng chỉ còn lại một lần này nữa thôi.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA


I.-KINH VĂN:


KINH TỤNG KHI CHỒNG QUI VỊ


Niềm ân ái thân hòa làm một,


Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.


Nhắn mưa gởi gió đưa thương,


Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?


Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,


Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.


Đã đành bẻ gãy chữ đồng,


Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.


Dầu sống sót cũng đành gọi thác,


Vui chi còn man mác tơ duyên.


Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,


Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.


Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,


Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.


Chở che khỏi kiếp phong trần,


Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.


Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,


Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.


Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,


Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.


Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,


Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.


Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,


Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.


Gởi hồn phách cho chàng định số,


Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.


Thiếp cam bao tóc thờ chàng,


Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!


ĐOÀN THỊ ĐIỂM



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Đạo Cao Đài lấy Nho Tông chuyển thế, nên việc cư xử giữa con người với nhau đều được qui định theo một phép tắc hợp với lẽ phải, nhứt là cách ứng xử của con người với nhau trong gia đình cho hợp với đạo đức.


Trong Kinh Thư viết: Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Thuấn, bèn gả hai nàng công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh cho, để xem cách tề gia của Thuấn. Ông Thuấn lấy ngũ điển ra đối đãi với mọi người, nên sau được vua Nghiêu nhường ngôi cho.


Trong nền đạo Cao Đài, theo ngũ luân của Nho giáo, coi đạo vợ chồng là nền tảng của gia đình, bổn phận người vợ hoàn toàn gởi thân cho chồng, cho nên đạo vợ chồng phải lấy ơn nghĩa mà sống đời với nhau. Khi chồng chết, người nữ tín đồ phải giữ lòng trinh tiết mà thờ phượng và cúng tế chồng theo đạo nghĩa của người đàn bà.


Kinh “Tụng Khi Chồng Qui Vị” dành cho người vợ cúng tế cho chồng nhằm nói lên cái ơn che chở, đùm bọc của đấng lang quân, mà nàng đã bao năm đem thân “sắn bìm nương bóng”. Người góa phụ Cao Đài, trong cảnh đau buồn mất đi một nguời yêu thương đã cùng chia vui sớt thảm, gắn bó với cuộc đời nàng, khiến cho nàng có lời tâm nguyện thờ chồng:


Thiếp cam bao tóc thờ chàng,


Rót chung ly biệt đôi hàng lệ sa.



III.-CHÚ GIẢI:



Niềm ân ái thân hòa làm một,


Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.


Ân ái : Chỉ vợ chồng thương yêu nhau.


Thân hòa làm một: Vợ chồng thương yêu nhau, hòa hợp nhau dù là hai người nhưng coi như là một.


Bộ Dịch Trình truyện viết: Sự tương cảm của muôn vật ở thế gian, không gì bằng nam nữ. Nam nữ tuy là hai cá thể nhưng khi kết hợp nhau, vì tình yêu vì bổn phận trở nên một thân vậy. Sách Ấu Học nói: Nam nữ có cái nghĩa cảm kích nhau, vợ chồng là tình thân một cá thể (Nam Nữ hữu tương cảm chi nghĩa; phu phụ vi nhất thể chi thân , ).


Sơ giao : Lúc mới giao tiếp với nhau, tức là lúc đầu mới quen biết nhau.


Khắc cốt ghi xương: Ý nói ghi nhớ vào lòng, không bao giờ quên.


Câu 1: Tình thương yêu giữa vợ chồng hòa hợp nhau như là một vậy.


Câu 2: Tình nghĩa gặp gỡ lúc ban đầu thiếp nguyện khắc ghi vào cõi lòng mãi mãi.



Nhắn mưa gởi gió đưa thương,


Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?


Nhắn mưa gởi gió: Nhờ mưa gió để nhắn gởi nỗi niềm.


Đưa thương: Đem niềm thương đưa đến.


Đoạn trường : Đứt ruột.


Do tích: Một vượn con bị giết, vượn mẹ đau lòng kêu mãi cho đến chết mới thôi. Mổ ra thì thấy ruột vượn mẹ đứt từ khúc một. Nghĩa bóng chỉ sự đau đớn như ruột đứt ra từng đoạn.


Câu 3: Nhắn gởi theo mưa gió những nỗi niềm thương nhớ đến chàng.


Câu 4: Kể từ phút này, thiếp biết tỏ nỗi niềm đau đớn này với ai?



Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,


Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.


Hội ngộ : Gặp gỡ nhau.


Ngổn ngang: Lộn xộn không thứ tự, lòng bối rối.


Mối nợ: Mối dây nợ nần ràng buộc nhau.


Tình chung: Hay chung tình : Mối tình chung thủy, tức là từ lúc yêu nhau phút ban đầu cho đến rốt cuộc đời cũng vẫn yêu nhau.


Câu 5 và 6: Càng nhớ tới những ngày cùng nhau gặp gỡ, lòng càng ngổn ngang, mối nợ tình chung thủy.



Đã đành bẻ gãy chữ đồng,


Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.


Chữ đồng: Hay giải đồng. Do chữ “Đồng tâm đái ”, “Đồng tâm kết ” là một sợi dây thắt lưng có hai giải lụa buộc lại với nhau, biểu hiện sự kết hợp vợ với chồng, cùng một lòng như nhau.


Nguyễn Du có câu:


Đã đành hai chữ đồng tâm,


Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.


Hoặc:


Bấy lâu khắn khít giải đồng,


Thân người, người cũng chia lòng riêng tây.


Bẻ gãy chữ đồng: Làm đứt giải đồng tâm, tức là vợ chồng bị gãy gánh do có người chết.


Hiển linh : Hiển hiện ra một cách linh thiêng.


Chứng chiếu : Chứng minh và soi xét.


Tiết trinh: Hay trinh tiết : Tấm lòng kiên trinh và trong sạch của người đàn bà.


Câu 7: Chàng đành làm đứt giải đồng tâm mà ra đi vĩnh viễn.


Câu 8: Thiếp xin chàng có linh hiển chứng chiếu cho tấm lòng tiết trinh của thiếp.


Sự quan hệ giữa vợ chồng được ơn Trên sắp đặt gặp gỡ nhau, chung sống nhau là để yêu thương đền đáp ơn nghĩa nhau, giúp đỡ cho nhau, đó gọi là duyên; hoặc một trong hai: vợ hay chồng phải nhận chịu những khổ đau, nói cách khác là phải trả những nghiệp quả, đó gọi là nợ.


Khi duyên nợ đã dứt, người chồng đành bẻ gãy chữ đồng mà ra đi mãi mãi, khiến cho mối tình chồng vợ phải chịu phân ly: Kẻ ra đồng nội ngàn thu yên giấc, người sống sót nơi cô phòng ở xóm nhà quạnh quẽ. Bà Đoàn Thị Điểm đã tả sự đau lòng của người quả phụ trong Nữ Trung Tùng Phận như bốn câu sau:


Để thân thiếp mình ngồi hiu quạnh,


Còn thây chàng tuyết lạnh, nắng nồng.


Đã đành bẻ gãy chữ đồng,


Chia đôi thiếp xóm, chàng đồng không hay.


Tuy có sự đau thảm trong lòng, người thiếu phụ Cao Đài được Bà Đoàn dạy phải một lòng giữ vẹn tiết trinh mà luôn hướng về Đức Từ bi:


Biết chăng cái thảm mất chồng,


Xin cho thiếp dựa nơi lòng Từ bi.



Dầu sống sót cũng đành gọi thác,


Vui chi còn man mác tơ duyên.


Sống sót: Còn sống sót trở lại. Hai vợ chồng, một người chết đi, còn một người sống ở lại gọi là sống sót.


Gọi thác: Coi như chết.


Dầu sống sót cũng đành gọi thác: Người đàn bà ngày xưa khi chồng đã chết rồi, thường tự xưng mình là “vị vong nhân ”, người chưa chết, ý muốn nói phận đàn bà buộc phải theo chồng, lẽ ra chồng chết phải chết theo, nếu còn sống sót là người đáng chết mà chưa chết vậy.


Theo nghĩa câu Kinh, người vợ tuy còn sống sót (vị vong nhân) nhưng xem như mình đã chết rồi, tức khong còn tha thiết với cuộc đời nữa.


Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu:


Thôi di đâu biết có trời,


Bỗng không mà hóa ra người vị vong.


Man mác: Dìu dịu, phơn phớt.


Tơ duyên: Sợi dây tơ ràng buộc nên duyên vợ chồng.


Do tích tơ hồng, tơ thắm, chỉ hồng như sau: Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chấn, mà không biết phải gả người nào. Ông mới dạy năm người con ông ngồi sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi tơ, mỗi sợi một màu; Còn Đặng Nguyên Chẩn ở ngoài, nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Nguyên Chẩn nắm dây tơ màu đỏ, nhằm người con gái thứ ba, đẹp hơn hết. Do tích này, tơ hồng hay tơ duyên là sợi chỉ ràng buộc lương duyên hai người.


Câu 9: Dù thiếp có sống sót ở lại nơi đời, nhưng cũng đành coi như đã chết rồi.


Câu 10: Còn vui vẻ làm chi nữa, lòng thiếp đang buồn dìu dịu cho mối tơ duyên.



Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,


Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.


Thiệt thòi: Chịu thua thiệt.


Cam phận: Cam chịu số phận.


Thuyền quyên: Theo cách phát âm của Tự Điển Hán Việt, Thiều Chửu, hay Từ Điển Hán Việt, Đào Duy Anh, thì viết là Thiền quyên.


Thiền quyên : Dáng đẹp đẽ dễ thương, thường dùng để chỉ riêng về đàn bà con gái đẹp đẽ diệu hiền.


Chứa chan giọt lệ:Giọt nước mắt đầm đìa.


Cửu tuyền : Chín suối, chỉ cõi Âm phủ.


Cuộn trôi: Cuốn trôi theo dòng nước.


Câu 11: Người con gái đẹp đẽ diệu hiền phải cam chịu cảnh thiệt thòi vắng người bạn tình chung.


Câu 12: Giọt nước mắt chứa chan cuốn trôi xuống tuyền đài (chàng có hay chăng?).



Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,


Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.


Phủi rồi nợ thế: Phủi sạch hết nợ đời.


Theo triết lý tôn giáo, con người sống là để trả nợ đời và nợ oan khiên nghiệt chướng. Do đó, khi con người chết, tức là phủi hết nợ đời, mới ra đi một cách nhẹ nhàng, người ở lại thì còn nặng nợ thế gian, còn mang nhiều khổ sở.


Trong bài Kinh, người cô phụ cho rằng: Giờ đây “Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế”, còn nàng thì:


Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.


Thật đáng thương tâm!


Góa thân: Thân góa bụa, tức là người đàn bà có chồng chết, còn gọi là quả phụ .


Câu 13: Chàng đã chết rồi, tức là đã được phủi hết nợ của thế gian.


Câu 14: Xin chàng có linh hiển thì giúp cho kẻ góa bụa này.



Chở che khỏi kiếp phong trần,


Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.


Phong trần : Gió bụi, chỉ những nỗi gian nan vất vả của cuộc đời.


Kiếp phong trần: Hay phong trần kiếp : Kiếp sống phải chịu nhiều gian nan vất vả.


Liệt nữ : Những người phụ nữ có khí tiết khẳng khái, anh hùng.


Gương liệt nữ: Những người phụ nữ có khí tiết khẳng khái, có thể dùng làm gương cho người đời sau noi theo.


Sách Ấu học có kể lại hai trang liệt nữ như sau: “Hàn Cửu Anh khủng tặc uế, nhi tự đầu ư uế; Trần Trọng thê khủng vẫn đức, nhi ninh vẫn ư nhai, thử nữ chi liệt giả , ; , , ”: Nàng Hàn Cửu Anh sợ cướp làm nhơ mà tự gieo vào chỗ nhơ; vợ anh Trần Trọng sợ chết mất đức hạnh thà chết ở hố, đấy là những trang liệt nữ.


Bộ Đường thư có chép rằng con gái ông Hàn Trọng Thành là nàng Cửu Anh, sợ cướp bắt làm nhục, bèn tự gieo mình vào trong phẩn dơ, lấy miệng hớp phẩn, bọn cướp thấy vậy bèn bỏ đi, không bức hiếp nàng.


Vợ anh Trần Trọng là em gái Trương Thúc Minh, cùng hai người chị dâu gặp cướp, sợ phải chịu nhục với bọn cướp, bèn bảo nhau rằng: Người đàn bà lấy thân người trong sạch làm cao cả, đâu được để thân bị ô nhục ư! Bèn nhảy xuống hố mà chết.


Hồng quần : Quần màu đỏ. Thời xưa tục bên Trung Quốc các người con gái sang giàu thường mặc quần màu đỏ. Vì vậy, hồng quần dùng để chỉ về nữ giới.


Câu 15: Xin chàng chở che cho thiếp thoát khỏi kiếp khó khăn vất vả này.


Câu 16: Thiếp nguyện gìn giữ tiết trong sạch để làm gương liệt nữ cho giới nữ nhi soi chung.



Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,


Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.


Cảnh trí: Hay trí cảnh : Cảnh của bậc Thánh trí, tức cõi Thánh.


Hộ dâu con: Gìn giữ và che chở cho con và dâu.


Nhơn luân : Đạo luân thường của con người, hay nói cách khác, là phép cư xử của con người ở thế gian hợp với lẽ đạo đức.


Câu 17: Dù cho chàng có được thảnh thơi, nhàn hạ nơi cõi Thánh.


Câu 18: Xin hãy phù hộ cho con và dâu giữ vẹn được mối đạo nhơn luân.


Trong cơn đau buồn của cuộc tử biệt sanh ly này, người quả phụ dù còn sống sót mà xem như đã chết rồi, thế mà còn nghĩ đến và mong muốn cho dâu con giữ vẹn được mối đạo nhơn luân. Quả là người đàn bà hiền thục và đạo đức vậy!



Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,


Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.


Vinh hiển : Vẻ vang hiển hách.


Cảnh Thần: Hay Thần cảnh , tức cõi giới Thần.


Gởi trong giấc mộng: Hiện vào trong giấc chiêm bao.


Câu 19: Cho dù chàng hiện giờ có vinh hiển nơi cõi Thần.


Câu 20: Nhưng cõi Âm dương xa cách, thiếp mong chàng hiện trong giấc mộng để đặng gần gũi nhau.



Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,


Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.


Thiên tào : Như Thiên đình.


Quyền phép: Có phép thuật và quyền hành.


Đỡ đường trần chật hẹp: Giúp đỡ cho cuộc sống nơi cõi trần đầy khó khăn, vất vả.


Thân côi: Dịch từ chữ cô thân : Tấm thân lẻ loi, cô độc.


Câu 21: Cho dù chàng có hưởng được quyền phép nơi cõi Thiêng Liêng.


Câu 22: Xin giúp đỡ cho mảnh thân cô độc của thiếp nơi cõi trần đầy những khó khăn vất vả này.



Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,


Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.


Cung Ngọc: Hay Ngọc cung : Chỉ cõi Tiên.


An ngôi: Yên trên ngôi vị.


Nợ đời còn mang: Còn đeo mang những món nợ nơi thế gian.


Câu 23: Dù cho chàng đã được an ngôi vị nơi cung Ngọc.


Câu 24: Xin chàng thương cho tấm thân thiếp còn mang nhiều mối nợ đời.



Gởi hồn phách cho chàng định số,


Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.


Hồn phách : Linh hồn và thể phách.


Cho chàng định số: Cho chàng định đoạt số phận.


Kiếp căn : Hay căn kiếp : Cái gốc rễ của kiếp sống, tức là do cái nguyên nhân của đời trước, gọi là tiền nhân thì sẽ có kết quả đời sau, gọi là hậu quả .


Trong Truyền Đăng Lục của nhà Phật nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị , ; , ”: Muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì cứ xem hưởng thụ của ta đời nay; muốn biết sự kết quả đời sau thế nào, ta cứ xem việc ta làm đời nay đó.


Như vậy, kiếp căn là tất cả những hành vi thiện ác trong một hay nhiều kiếp sống trước tạo thành gốc rễ để báo ứng cho kiếp này hay kiếp sau. Nếu việc làm lành, gọi là thiện căn thì tạo phúc đức cho người làm hưởng, nếu việc làm hung dữ, gọi là ác căn thì gây quả báo cho người làm phải trả.


Dây oan: Sợi dây oan nghiệt.


Câu 25: Thiếp xin gởi linh hồn và thể phách cho chàng định dùm số phận.


Câu 26: Thiếp cũng xin gởi kiếp căn cho chàng nhờ cởi bỏ mối dây oan nghiệt.



Thiếp cam bao tóc thờ chàng,


Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!


Thiếp cam bao tóc: Thiếp đành là bao kín mái tóc, để giữ lòng chung thủy đối với chàng (Xem điển tích ở câu 12 Kinh Hôn Phối).


Đôi hàng lụy sa: Hai hàng nước mắt rơi.


Câu 27: Thiếp đành cam bao mái tóc lại để giữ lòng chung thủy thờ phụng chàng.


Câu 28: Với hai dòng nước mắt đầm đìa, thiếp xin rót chung rượu ly biệt dâng lên cho chàng.


Trong phút cuối nơi đàn tế cho chồng, người quả phụ lòng sầu thảm vì mối tử biệt sinh ly giữa đôi vợ chồng, nên có tâm nguyện là sẵn sàng nhận chịu những đau thương mất mát và nhứt là hứa sẽ giữ lòng chung thủy, vẹn nghĩa tiết trinh để thờ chồng.


Đạo thờ chồng từ xưa đã được người đời khen tặng và triều đình ban cho tinh biểu, tức là ban biển khen cho những người trung, hiếu, tiết liệt để tỏ lòng kính mến mà làm gương cho mọi người đều biết.


Người tiết phụ ở làng Thạch Thán được vua ban cho một tấm biển vàng có bốn chữ: Khâm tứ tiết phụ được sách Kiến Văn Lục chép lại như sau:


Bà tiết phụ đây là vợ Ông Cử nhân họ Nguyễn ở làng Thạch Thán. Lúc Ông Cử Nguyễn mất, bà mới mười chín tuổi, không có con và hai bên cha mẹ đều còn cả. Bà khóc nói: “Chết dễ lắm, chỉ nỗi hai bên cha mẹ sớm tối biết trông cậy vào ai thôi!”. Rồi Bà thủ tiết, không cải giá, chăm nuôi bố mẹ chồng, bố mẹ mình hơn ba mươi năm, mọi việc phụng dưỡng khi sống, ma chay khi chết, thảy đều hợp lễ. Năm Bính Tuất đời vua Cảnh Hưng (1766) có chiếu chỉ nhà vua muốn ban biển khen cho những người hiếu tử, tiết phụ, Quan Phủ Huyện sở tại tâu rõ việc bà lên cho vua biết, bà đặc cách được đội ơn tinh biểu.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA


I.-KINH VĂN:


KINH TỤNG HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN


Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,


Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.


Thân nhau từ buổi lọt lòng,


Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.


Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,


Huống âm dương hết thấy mặt nhau.


Rẽ phân cốt nhục đồng bào,


Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.


Thương những thuở huyên đường ôm ấp,


Thương những khi co đắp chung mền.


Thương hồi thơ bé tuổi tên,


Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.


Rủi Thiên số Nam Tào đã định,


Giải căn sinh xa lánh trần ai.


Khá tua theo bóng CAO ĐÀI,


Nương mây thoát tục ra ngoài Càn Khôn.


Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,


Tránh oan gia giải nợ trầm luân.


Viếng thăm hôm sớm …….(1)


Trọn câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.


Gởi Tổ Phụ …..(2) hiền cung phụng,


Gởi sắp em còn sống nơi đời.


Rót chung ly biệt lưng vơi,


Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.


ĐOÀN THỊ ĐIỂM



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Thánh hiền ngày xưa có quan niệm rằng tình nghĩa anh em như là tay chân, tình nghĩa vợ chồng như xiêm áo, trong ca dao Việt Nam có câu:


Anh em như thể chân tay,


Vợ chồng như áo cởi ngay tức thì.


Cổ ngữ cũng có nói: Cái ở thế gian rất khó được là anh em: “Thế gian tối nan đắc giả huynh đệ ”. Câu này được trích từ câu chuyện trong sách Bắc Tề như sau: Ông Tô Quỳnh làm quan thái thú huyện Thanh Hà. Dân trong huyện có hai anh em ruột tên là Phổ Minh tranh giành ruộng đất, đã nhiều năm thưa kiện không ngã lẽ, mỗi bên viện cả trăm người để làm chứng. Vụ án được chuyển lên quan thái thú, ông Quỳnh đòi vào mà phủ dụ rằng: Cái khó được trong thiên hạ là anh em, cái dễ được là ruộng đất. Thảng như được ruộng đất mất anh em, bấy giờ trong lòng của hai người thế nào? Nói đến đó, quan thái thú bèn rơi lụy khóc. Anh em Phổ Minh cúi đầu xin về nhà nghĩ lại…Chia rẽ năm năm, rồi sau anh em hòa thuận trở lại.


Xem thế, tình anh em thực là nồng nàn thắm thiết, từ buổi lọt lòng đến lúc trưởng thành, biết bao nhiêu là niềm thương yêu khăng khít. Nếu chẳng may, anh hay chị mãn phần thì phận làm em lại há nỡ chẳng tiếc thương sao!


Đạo Cao Đài thể hiện cái tình anh em khi tử biệt bằng bài Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần.



Bài Kinh này được bà Đoàn Thị Điểm là một vị nữ Tiên trong Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho toàn chúng sanh trong đạo Cao Đài, dùng để em tế lễ anh chị đã quá cố.


Theo thiển ý, tựa bài kinh “Huynh Đệ Mãn Phần” chỉ thể hiện được một phái nam mà thôi. Lại nữa, tựa “Huynh Đệ Mãn Phần” có thể làm cho một số người đạo ở địa phương hiểu lầm, họ cho rằng người anh (hoặc chị) cũng có thể tế cho em đã mãn phần bằng bài kinh này (vì tựa là huynh đệ mãn phần). Để tránh sự hiểu lầm và đầy đủ nghĩa hơn, chúng tôi kính mong Hội Thánh cho chỉnh lại tựa bài kinh là Kinh Tụng Huynh Tỷ Mãn Phần.



III.-CHÚ GIẢI:



Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,


Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.


Thủ túc : Tay và chơn, chỉ tình anh em ruột thịt.


Trang Tử nói: Anh em như tay chân, vợ chồng như áo quần. Áo quần rách lại may mới được, chân tay đứt thì khó bề nối lại đặng (Huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục; y phục phá thời cánh đắc tân, thủ túc đoạn thời nan tái tục , ; , ).


Đã đành: Đã đành phải cam chịu.


Vĩnh biệt : Ly biệt vĩnh viễn, xa cách mãi mãi.


Tình nồng: Tình cảm nồng nàn.


Câu 1: Niềm thương cảm giữa anh em ruột thịt từ nay đành cam vĩnh biệt.


Câu 2: Bây giờ càng nhớ nhau càng luyến tiếc tình thương yêu nồng nàn.



Thân nhau từ buổi lọt lòng,


Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.


Từ buổi lọt lòng: Từ khi mới được mẹ sinh ra.


Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau: Ý nói từng chén cơm, từng miếng cá cũng cùng chia sớt cho nhau.


Câu 3 và 4: Anh em ruột thịt thân thiết nhau ngay từ lúc mới lọt lòng người mẹ ra, cùng chia xẻ nhau từng chén cơm từng miếng cá.


Thật vậy, anh em cùng huyết thống, cùng cha mẹ sinh ra, tức là cùng núm ruột, đã từng sống bên nhau, thân thiết nhau từ lúc thơ bé cho đến lớn khôn, cùng vui đùa, cùng chia xẻ, san sớt ngọt bùi cho nhau, từng miếng cơm, miếng cá mà mẹ đút cho ăn cũng giống như răng và lưỡi cùng chung hưởng mùi thức ăn, thế mà nỡ lòng nào dứt tình nhau để răng lại cắn lưỡi. Câu chuyện “răng cắn lưỡi” sau đây tựa như tình anh em bất hòa với nhau.


Chuyện kể rằng: Hồi xảy ra chuyện bất hòa giữa anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ kéo quân vào vây thành Qui Nhơn. Nguyễn Nhạc (anh Huệ) đứng vào thế nguy ngặt đến nỗi phải thân lên đứng trên thành kêu khóc, nhưng Nguyễn Huệ vẫn không chịu rút quân. Bữa đó, trong trại đang lúc ăn cơm, Nguyễn Huệ vô ý để răng cắn nhằm lưỡi, bèn bảo Trần Văn Kỷ là người nổi tiếng hay chữ, đỗ giải nguyên, đang giữ chức tham mưu, làm một bài thơ và lấy tựa là “Răng cắn lưỡi”.


Trần Văn Kỷ liền đọc luôn bốn câu sau đây:


Ngã ký sanh tiền, nhữ vị sanh,


我既生前,汝未生,


Nhữ sanh chi hậu, ngã vi huynh.


汝生之後, 我為兄.


Lý ưng cộng hưởng trân cam vị,


理應共享珍甘味,


Hà nhẫn tương tranh cốt nhục tình.


何忍相爭骨肉情.


Nghĩa là:


Ta đã ra đời, chú mới sanh,


Từ sanh ra chú, ta làm anh.


Lẽ nên cùng hưởng mùi ngon ngọt,


Cốt nhục tranh nhau nỡ đoạn đành?


Nguyễn Huệ nghe xong bài thơ, xúc động, ăn cơm xong, liền ra lệnh rút quân về Phú Xuân.(Việt Nam Danh Nhân Tự Điển, Nguyễn Huyền Anh).



Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,


Huống âm dương hết thấy mặt nhau


Câu chọc ruột: Một câu nói động đến anh em ví như lấy cây chọc vào ruột gan.


Còn đau đớn bấy: Còn thấy đau đớn thay.


Huống: Huống hồ.


Âm Dương: Tức cõi Âm hay Âm phủ; cõi Dương hay Dương gian.


Câu 5: Một lời nói động đến anh em, ví như cây chọc vào ruột gan còn đau đớn lắm thay.


Câu 6: Huống hồ giờ đây, kẻ Âm cảnh, người Dương gian đã chia lìa hết thấy mặt nhau.



Rẽ phân cốt nhục đồng bào,


Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.


Rẽ phân: Chia rẽ và phân lìa.


Cốt nhục : Xương và thịt. Chỉ anh em ruột thịt với nhau, tức cùng cha cùng mẹ.


Đồng bào : Cùng một bọc sinh ra. Chỉ con cùng một cha một mẹ.


Cảnh Thiên: Hay Thiên cảnh : Cõi Trời hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Cõi tục: Cõi phầm tục, tức là cõi trần của nhơn loại.


Câu 7: Anh em cốt nhục cùng chung một mẹ, bây giờ phải chịu chia rẽ phân lìa nhau.


Câu 8: Người về nơi Thiên cảnh, kẻ còn ở trần gian, lẽ nào không thương nhớ nhau.



Thương những thuở huyên đường ôm ấp,


Thương những khi co đắp chung mền.


Huyên đường : Nhà Huyên, chỉ người mẹ.


Huyên là một loại cỏ ăn được, khi ăn vào có thể quên tất cả phiền muộn, nên được gọi là vong ưu thảo (Cỏ quên sự lo buồn). Cỏ Huyên thường được người xưa ví như người mẹ hiền, vì lấy điển ở Kinh Thi: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối : Ước gì được cỏ huyên mà trồng ở thềm bắc. Do đó, người ta thường gọi mẹ bằng Huyên đường , huyên đình , nhà huyên.


Ôm ấp: Ôm vào lòng mà ấp yêu thắm thiết.


Đắp chung mền: Anh em nằm ngủ đắp chung một cái mền. Do điển tích sau:


Hán Thư chép: Khương Quảng cùng hai em là Trọng Hải, Quí Giang rất nên hòa thuận, cùng thương yêu nhau chí thiết. Tuy mỗi người đều có vợ, nhưng tình cảm anh em không đành ngủ riêng, bèn sắm một cái mền to, khi ngủ cùng chung nhau đắp. Do vậy sách Ấu học có câu: “Khương gia đại bị dĩ đồng miên ”: Nhà họ Khương sắm mền rộng để anh em cùng nhau đắp chung.


Câu 9: Thương những lúc còn nhỏ bé, anh em được mẹ ôm vào lòng ấp yêu thương mến.


Câu 10: Thương đến hồi anh em vì lạnh nằm chung đắp một chiếc mền.



Thương hồi thơ bé tuổi tên,


Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.


Thơ bé tuổi tên: Lúc còn thơ dại, còn kêu gọi nhau bằng tên tuổi.


Giữ bền nghĩa nhâu: Giữ vẹn việc cư xử có đạo lý giữa anh chị em với nhau.


Câu 11: Thương những lúc còn thơ dại, kêu gọi nhau bằng tên tuổi.


Câu 12: Thương đến hồi khôn lớn cũng vẫn giữ bền nghĩa anh chị em với nhau.



Rủi Thiên số Nam Tào đã định,


Giải căn sinh xa lánh trần ai.


Thiên số : Vận mệnh do Trời định trước, hay số tuổi thọ do Trời định.


Nam Tào : Là một ngôi sao ở phương nam, còn gọi là Nam Cực tinh .


Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vì sao nằm trên trục Nam Bắc của Địa cầu. Khi Địa cầu tự quay, hay quay xung quanh mặt trời, hai vì sao này vẫn luôn luôn nằm theo hai hướng Nam Bắc của Địa cầu.


Tương truyền, Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị Tiên nắm bộ sanh và bộ tử của nhơn loại. Nam Tào còn gọi là Nam Cực Tiên Ông coi về bộ sanh, Bắc Đẩu Tiên Ông coi về bộ tử.


Theo Đức Hộ Pháp, nơi Cung Nam Tào Bắc Đẩu “có một quyển sách Thiên Thơ để trước mặt ta, dở ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì thì trong quyển Thiên Thơ ấy nó hiện tượng ra hết; chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa vị nào, mình đứng đến mức nào, thì cũng do mình định đoạt lấy.


Vị chưởng quản nơi cung ấy theo tiếng phàm của chúng ta đặt tên là NAM TÀO BẮC ĐẨU”.


Giải căn sinh : Cởi bỏ hết tất cả những oan nghiệt đã gây ra từ những hành vi hung ác trong kiếp sống trước.


Trần ai : Bụi bặm, chỉ cõi trần, tức cõi của nhơn loại đang sống.


Câu 13: Nay nhằm số tuổi thọ do Nam Tào đã định sẵn.


Câu 14: Nên cởi bỏ hết những căn nghiệt của kiếp sống trước đã gây ra và xa lìa cõi trần ai.



Khá tua theo bóng CAO ĐÀI,


Nương mây thoát tục ra ngoài Càn Khôn.


Khá tua: Khá nên.


Theo bóng Cao Đài: Theo ánh sáng chân lý của Đấng Cao Đài, tức là nương theo Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.


Thoát tục : Thoát khỏi cảnh trần tục.


Ra ngoài Càn khôn: Ra khỏi nơi trần để đi vào Càn khôn Vũ trụ.


Câu 15: Khá nên theo ánh sáng chân lý của Đức Chí Tôn.


Câu 16: Nương theo mây để đi ra ngoài cõi trần, vào Càn khôn Vũ trụ.



Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,


Tránh oan gia giải nợ trầm luân.


Tình ái : Cái tình cảm thương yêu nhau.


Giải nợ: Cởi bỏ các món nợ kiếp trước.


Trầm luân : Chìm đắm.


Câu 17 và 18: Khối tình thương yêu dù hương hồn còn nhớ tới, nên xa lánh khỏi những oan khiên nghiệt chướng và cởi bỏ các món nợ để Chơn linh không bị chìm đắm nữa.



Viếng thăm hôm sớm ….(1)………,


Trọn câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.


(1). Chú thích: Trong quyển Kinh “Thiên Đạo và Thế Đạo” chú thích: Song thân hoặc phụ thân hay mẫu thân đã qui vị, tức là điền vào câu ấy chữ song thân khi cha mẹ đều chết, phụ thân khi cha chết mẹ còn, mẫu thân khi mẹ chết cha còn. Như vậy, trong trường hợp cha mẹ còn sống hết thì phải điền như thế nào? Do điểm này mà có nhiều địa phương gặp hoàn cảnh cha mẹ còn sống hết, không cho đọc bài kinh em tế anh chị, bởi vì họ cho rằng không thể điền vào câu trên. Thiết tưởng hễ anh hay chị mãn phần thì vẫn phải tụng bài kinh này để cho em tế lễ, dù còn đầy đủ cha mẹ hay cha chết hoặc mẹ chết hoặc cha mẹ chết hết.


Viếng thăm hôm sớm: Thăm viếng vào buổi tối và buổi sáng. Hay luôn luôn thăm viếng.


Thần tỉnh : Do câu: “Thần định hôn tỉnh ”, tức là sớm thăm tối viếng.


Trong Kinh Lễ có dạy: Bổn phận làm con, tối đến phải dọn dẹp chỗ cha mẹ ngủ, sáng ra phải vào thăm cha mẹ, đêm qua có ngủ được không. Do đó mới có câu: Thần định hôn tỉnh .


Ân cần : Lo lắng săn sóc một cách chu đáo.


Cung Tiên: Hay Tiên cung , chỉ cõi Tiên.


Câu 19: Hôm sớm phải viếng thăm (Cha, hoặc mẹ, hoặc cha mẹ).


Câu 20: Để làm tròn câu thần hôn định tỉnh, tức là lo lắng ân cần cho vẹn bề hiếu thảo nơi cõi Thiên.



Gởi Tổ Phụ …….hiền cung phụng,


Gởi sắp em còn sống nơi đời.


Tổ phụ : Ông nội. Song ở đây nghĩa Kinh chỉ Tổ tiên dòng họ.


Anh hay chị hiền: Chỉ Chơn linh anh hay chị đã quá cố.


Cung phụng : Dâng hiến phẩm vật hay vật thực lên cho người trên mình.


Gởi sắp em còn sống nơi đời: Gởi đám em út còn sống lại nơi cõi đời.


Câu 21: Gởi Chơn linh Tổ phụ cho (Anh hay chị hiền) lo lắng cung phụng nơi cõi Thiêng Liêng.


Câu 22: Và gởi lại đám em út còn sống ở lại cõi đời này.



Rót chung ly biệt lưng vơi,


Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.


Lưng vơi: Không đầy.


Rót chung ly biệt: Rót chung rượu chia tay.


Tha thiết : Nói tắt câu trong sách Đại Học: Như thiết như tha : Ý chỉ sự giồi mài, khắc dũa cho bóng, vì thế bạn bè gắng gỏi gọi là thiết tha.


Câu 23: Xin rót chung rượu ly biệt lưng vơi với giọt nước mắt đầm đìa.


Câu 24: Tấm lòng tha thiết để đưa tiễn người bạn xưa cũ.






(1) Song thân, hoặc phụ hay mẫu thân đã qui vị.



(2) Anh hay chị mãn phần.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA


I.-KINH VĂN:


KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG


CỐ HỮU ĐÃ QUI LIỄU


Khi dương thế không phân phải quấy,


Nay Hư linh đã thấy hành tàng.


CHÍ TÔN xá tội giải oan,


Thánh, Thần Tiên, Phật cứu nàn độ căn.


Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,


Định tâm thần giải mộng Nam kha.


Càn khôn để bước ta bà,


Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.


Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,


Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.


Tiên phong phủi ngọn phất trần,


Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.


Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,


Tầm không môn đặng đợi Như Lai.


Hào quang chiếu diệu CAO ĐÀI,


May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.


Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,


Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.


Lánh xa trược chất bụi hồng,


Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.


Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,


Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.


Trên đường Thánh đức lần dò,


Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa công.


Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,


Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.


Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,


Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.


(Tụng Kinh này rồi tiếp tụng DI LẠC CHƠN KINH)


ĐOÀN THỊ ĐIỂM



II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:



Bài Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu do Bà Đoàn Thị Điểm, một nữ sĩ nổi danh của Việt Nam và cũng là một vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho chúng sanh Đạo Cao Đài.


Bài Kinh này được dùng để đồng nhi tụng đọc khi những người ngoài thân tộc ruột thịt, hay bạn bè tế lễ cho người quá cố (Nghi lễ này gọi là phụ tế).


Chúng ta đã biết, ngoài quan hệ thân tộc, người ta còn nhiều mối quan hệ khác nữa như: Bà con, xóm giềng, bè bạn, đồng nghiệp…Tất cả những mối quan hệ đó được gọi là Bà con thân bằng cố hữu.


Theo quan niệm về đạo lý con người, một nhà có việc tang thì trăm nhà lo giúp (Nhứt gia hữu sự, bá gia ưu , ), hoặc lấy câu “thố tử hồ bi ” để tỏ lòng đau xót cho nhau.


Trong thiên Khúc Lễ, sách Lễ Ký có nói rằng: Trong làng có tang sự thì người giã gạo chẳng đặng hò, có tẫn liệm thì ngoài đường không ca hát (Lân hữu tang, thung bất xướng, lý hữu tẫn bất hạng ca , ; , ). Đây là phép cư xử của người biết đạo lý, nhằm bày tỏ chia buồn cùng tang gia hiếu quyến của thân bằng cố hữu trong cơn hữu sự.


Đức Khổng Tử là người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có kể lại rằng: Phu Tử ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát (Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. , . , ).


Châu Trình ngày xưa lấy gương Đức Khổng Phu Tử điếu tang người đời mà dạy rằng: Khi đến điếu nhà có tang, chẳng nên uống rượu ăn thịt, chẳng đặng phép đàm luận lớn hoặc cười cợt to tiếng (Phàm điếu ư hữu tang giả chi trắc, bất ẩm tửu thực nhục, bất khả cử đàm đại tiếu , , ), mà phải tỏ vẻ thương xót như thế mới là lẽ phải vậy.


Việc tang sự là cái cảnh buồn đau, bối rối của người ta, mà sự trợ tang là một nghĩa vụ của mọi người chúng ta. Đã là nghĩa vụ, thì khi người gặp cảnh tang biến, có thể giúp được việc gì thì giúp, còn nghĩ gì đến sự ăn uống được, trong lúc tang quyến gặp cảnh đau đớn, còn vui đâu mà thù tiếp. Vậy mà bày cổ bàn thịnh soạn để tiệc tùng, thì than ôi! đâu còn là ý nghĩa của sự điếu tang nữa!


Theo tang lễ của Cao Đài, về thể pháp, người tín đồ nếu có sắm phẩm vật để tế lễ người quá vãng, thiết nghĩ là nên sắm hoa quả, hay trà bánh, đó mới là lễ phẩm để cúng tế; còn về bí pháp, thì phải hết sức thành tâm tụng niệm để cầu rỗi cho vong linh của người quá cố.



III.-CHÚ GIẢI:



Khi dương thế không phân phải quấy,


Nay Hư linh đã thấy hành tàng.


Dương thế : Cõi của người sống, tức chỉ cõi trần gian hay cõi thế gian mà nhơn loại đang sống.


Hành tàng : Những hành vi hiển hiện hay ẩn kín được gọi là hành tàng. Như câu sau đây:


Hành tàng của mình (tất cả những việc làm thấy rõ, hoặc giấu kín), dù hư dù thực tự nơi nhà mình biết, cái họa phước bởi đâu mà ra, thì phải hỏi làm chi? Hễ lành dữ rốt lại cũng có trả, chỉ trả kíp hay chầy mà thôi (Hành tàng hư thực tự gia tri, họa phúc nhân do cánh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo chỉ tranh lai tảo dữ lai trì , ? , ).


Câu 1: Khi còn sống nơi dương thế, vì còn vô minh nên không biết được phải quấy.


Câu 2: Ngày nay, hồn lìa khỏi xác, trở về cõi hư linh mới thấy được mọi hành tàng.


Con người sinh ra ở trên cõi đời này, chưa ai sống quá trăm tuổi, không kể tai nạn, bệnh tật xảy đến thì bất luận già trẻ cũng có thể chết một cách đột ngột, bất ngờ.


Với cuộc sống vô thường như vậy, lẽ ra con người phải sống làm sao cho thân tâm thường an lạc, chẳng nên gây những việc tội tình, khiến phải ăn năn hối hận. Nhưng vì vô minh đã che mờ chân tánh, thất tình lục dục sai sử, làm cho con người khó phân biệt được việc phải quấy trên cõi đời này, làm biết bao tội lỗi, gây ra bao nhiêu là căn nghiệt. Một ngày kia, chẳng may nhắm mắt buông xuôi mọi việc, để trở về cõi vô vi, thì than ôi! “Nay hư linh đã thấy hành tàng”: Nếu hành vi lúc sanh tiền làm những việc phải, tốt thì giờ đây được nhẹ nhàng thảnh thơi; còn nếu lúc trước làm những việc quấy ác thì bây giờ ăn năn hối ngộ đã muộn màng rồi vậy.



CHÍ TÔN xá tội giải oan,


Thánh, Thần Tiên, Phật cứu nàn độ căn.


Xá tội : Tha thứ tội tình.


Giải oan : Cổi bỏ oan nghiệt.


Cứu nàn: Hay cứu nạn , tức là cứu giúp các tai nạn cho người.


Độ căn : Căn là cái gốc rễ do việc làm thiện hay ác ở kiếp trước, gây ra nghiệp lành hay dữ cho kiếp này. Độ căn là cứu giúp để thoát khỏi những căn nghiệp ác.


Câu 3: Đức Chí Tôn xá tội và cổi bỏ mọi oan nghiệt cho chúng sanh trong kỳ ân xá này.


Câu 4: Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cứu khổ cứu nạn và cứu giúp thoát khỏi các căn nghiệp ác.


Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng huyền cơ khai mở nền Đại Đạo, đại ân xá cho các Chơn linh tội lỗi, giải trừ oan khiên nghiệp quả, nhằm mục đích cho chúng sanh dễ bề tu hành, hầu có thể phản bổn huờn nguyên, qui hồi cựu vị. Hơn nữa, đạo Cao Đài là một tôn giáo ra đời nhằm để cứu vớt người có tội lỗi như lời Thánh giáo đã dạy: “Buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.


Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.


Điều cần nhứt của người tu hành, nếu có tội lỗi trước hết phải biết sám hối ăn năn, và sau nữa lo lập công bồi đức để được xá tội hiện tại và tội tiền khiên.


Trong bài Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối cũng có nói về việc xá tội các Chơn linh:


Chí Tôn xá tội giải oan,


Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ vong.



Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,


Định tâm thần giải mộng Nam kha.


Đã tầng chịu: Đã từng chịu đựng.


Khó khăn kiếp sống: Cái kiếp sống ở cõi trần khó khăn.


Định tâm thần : Tập trung tâm và thần lại một điểm, tức thu nhiếp tâm và thần cho an định để không bị tán loạn.


Mộng Nam kha: Hay Nam kha mộng : Giấc mộng ở cành cây hướng nam. Tên một bài ký của Lý Công Tá đời Đường chép rằng:


Thuần Vu Phần chiêm bao thấy mình đi tới nước Hoè An được vị quốc vương nước này cho làm Thái thú và lại gã Công chúa cho, nên được hưởng mọi sự vinh hiển. Sau đó, Thuần Vu Phần được lệnh nhà vua đi dẹp giặc, bị thua trận, ở cung Công chúa cũng bị bệnh chết, khiến nhà vua nghi kỵ, đuổi đi. Chàng chán nãn, buồn rầu, bèn giựt mình tỉnh giấc, thấy mình ngủ dưới gốc cây hoè, lại dưới cành cây phía nam có một tổ kiến, mới chợt tỉnh ngộ là mình chiêm bao.


Về sau, người ta dùng điển “Giấc mộng Nam kha”, “Giấc hoè” để chỉ cuộc đời như giấc mộng, công danh phú quí tỷ như giấc chiêm bao.


Câu 5: Đã từng chịu đựng những nỗi khó khăn trong kiếp sống.


Câu 6: Hãy định tỉnh tâm thần lại mà quán xét để hiểu rõ những mồi vinh hoa phú quí nơi thế gian này, chẳng qua chỉ là một giấc mộng (Nam kha) mà thôi.



Càn khôn để bước ta bà,


Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.


Càn khôn : Trời đất, chỉ Càn khôn Vũ trụ.


Ta bà: Hay Sa bà do chữ Phạn là Saha, còn gọi là Ta bà thế giới. Thế giới Ta bà là một đại thiên thế giới và địa cầu nơi con người ở chỉ là một nơi rất nhỏ bé trong thế giới Ta bà. Ta bà Hán dịch là kham nhẫn , tức chỉ chúng sanh ở thế giới này phải nhẫn chịu nhiều điều khổ sở, phiền muộn.


Để bước Ta bà: Để bước chân xuống cõi Ta bà, ý muốn nói đầu thai xuống làm người nơi cõi trần.


Thoát tục : Thoát khỏi cõi phàm tục.


Đoạt cơ thoát tục : Đoạt được cơ mầu nhiệm của bí pháp thì đắc Đạo. Mà đắc Đạo tức là thoát khỏi cảnh trần tục để được về cõi Thiêng Liêng.


Tạo nhà cõi Thiên: Xây dựng ngôi nhà nơi cõi Thiêng Liêng, ý chỉ tạo lập ngôi vị ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Câu 7 và 8: Trong Càn khôn thế giới, để bước chân lên cõi Ta bà, Chơn linh phải đầu kiếp, hầu có được xác thân hữu hình mà tạo lập ngôi vị nơi cõi Thiêng Liêng, đó là đoạt cơ mầu nhiệm mà đắc Đạo vậy.



Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,


Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.


Tha tiền khiên trước: Xóa bỏ các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.


Linh phan : Phướn linh, tức cây phướng linh thiêng, cây phướn dìu dẫn Chơn linh nơi cõi Thiêng Liêng.


Nguyên nhân : Những bậc có Chơn linh được sinh ra từ lúc khai thiên lập địa.


Như ta đã biết, Chơn linh là một Tiểu Linh quang được chiết ra từ khối Đại Linh quang của Đức Chí Tôn, Phật Mẫu mới đem phối hợp với Chơn thần do Ngài tạo ra nơi Kim Bàn để làm thành một thánh hình, hay một hình thể Thiêng liêng: Đó là Nguyên nhân vậy.


Câu 9: Nhờ ân xá kỳ ba, nên Đức Chí Tôn tha thứ các tội lỗi đã gây ra từ nơi kiếp sống trước.


Câu 10: Đưa phướn linh để tiếp rước các bậc nguyên nhân trở về với cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.



Tiên phong phủi ngọn phất trần,


Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.


Tiên phong : Phong cách của bậc Tiên.


Phủi ngọn: Phất nhẹ cây.


Phất trần : Còn gọi là Phất chủ là cây dùng để quét bụi.


Theo Tự Điển Thiều Chủ, chủ là một giống thú thuộc loài nai, như con hươu mà to hơn, lúc đi đàn hươu theo sau, đuôi nó phẩy sạch bụi, ngày xưa thường dùng làm cái phất trần; vì thế nên có khi gọi cái phất trần là chủ vĩ .


Cây phất trần là một bửu vật, có pháp thuật rất huyền diệu của Thái Thượng Lão Quân, nên các Tiên gia thường cầm cây phất chủ và phất chủ tượng trưng cho Đạo Tiên.


Liên đài : Đài sen hay tòa sen. Ở đây, hoa sen tượng cho chiếc xe Thiêng liêng (Liên Thần) đưa các Chơn linh đắc Đạo vào Tây phương Cực Lạc.


Câu 11: Nhờ các bậc Tiên gia dùng ngọn phất chủ để quét sạch những bụi trần đã thấm nhiễm vào Chơn thần.


Câu 12: Khi Chơn thần được trong sạch, nhẹ nhàng, đài sen sẽ đỡ gót để đưa Chơn linh đến cõi Tây phương Cực Lạc.



Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,


Tầm không môn đặng đợi Như Lai.


Cửa Cực Lạc: Tức Cực Lạc quan , cánh cổng dẫn đến Cực Lạc Thế Giới.


Đon đường thẳng tới: Dò đường mà đi thẳng tới.


Tầm : Tìm kiếm.


Không môn : Cửa không, cửa chùa, hay của Phật.


Giáo lý nhà Phật cho rằng Pháp không, mọi pháp hữu vi đều là không, tức mọi sự vật đều không có thực thể tự tánh sinh khởi, do các nhân duyên giả hợp lại (giả danh) tạo thành.


Ngã không: Không có thực thể độc lập, riêng biệt, thường còn, nên không có ngã.


Sắc không: Sắc không khác với không, không không khác với sắc, sắc là không, không là sắc. Nhờ không mà vạn vật mới hiện hữu được và chính bởi vì cái sự kiện hiện hữu, vạn vật phải là không.


Chính vì chủ trương của Phật giáo là “Vạn pháp giai không ” nên người ta thường gọi cửa chùa hay cửa nhà Phật là Không môn.


Như Lai : Chữ Như Lai phát xuất từ câu: “Bản giác vi như, kim giác vi lai , ”, nghĩa là vốn biết là như, nay biết là lai.


Đây là danh hiệu Đức Phật, chỉ bậc giác ngộ viên mãn.


Theo Kinh Kim Cang, Như lai là bậc không từ đâu mà tới và cũng sẽ không đi tới đâu. Như Lai từ Chân như tới và sẽ đi về Chân như.


Câu 13: Chơn linh phải dò theo nẻo vào Cực Lạc để thẳng đường đi tới.


Câu 14: Tìm đến của Phật mà vào và chờ đợi bái kiến Đức Như Lai.



Hào quang chiếu diệu CAO ĐÀI,


May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.


Hào quang : Ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ các vật hay các Đấng Thiêng Liêng.


Chiếu diệu 耀: Chiếu sáng chói lọi, chiếu rực rỡ.


Cao Đài : Chỉ Đức Chí Tôn.


May duyên: Có duyên may mắn.


Siêu sanh : Tạo cho Chơn linh vượt thoát khỏi phàm tục để lên sống vĩnh viễn nơi cõi Thiêng Liêng.


Câu 15 và 16: Ánh sáng hào quang của Đấng Cao Đài đã chiếu diệu khắp chốn, đó là cơ hội may mắn cho những Chơn linh có duyên phần đặng gặp được ngày siêu thăng lên sống vĩnh viễn nơi Thiêng Liêng Hằng Sống.



Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,


Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.


Nguyên tánh : Hay tự tánh, Thiên tánh là cái tánh ban sơ Trời phú cho con người, cái tánh ấy vốn thiện lành.


Trụ nguyên tánh : Giữ chặt cái nguyên tánh, tức giữ vững tánh thiện lành của mình.


Hồn linh: Tức Linh hồn .


Nhàn lạc : Vui vẻ trong cảnh nhàn hạ.


Cõi Đào nguyên: Cùng nghĩa với Động đào, chỉ cõi Tiên. (Xem chú thích nơi bài Kinh Khi Về).


Hạc : Một loài chim có chân cao, cổ dài, da đỏ, lông trắng. Hạc là loại chim sống lâu, có thể sống ngoài ngàn năm. Theo Hàn thi ngoại truyện, thì loại hạc vàng có thể bay rất xa, mỗi lần cất cánh thì có thể bay hàng muôn dặm, vì thế những linh hạc được các vị Thần Tiên dùng để cỡi hay kéo xe vân du trong các cõi giới. Trong bài Kinh Niệm Hương có viết:


Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,


Xuống phàm trần vội gác xe tiên.


Thừa : Cỡi, như thừa xa là cỡi xe, thừa long là cỡi rồng.


Long : Rồng, một loại thủy tộc có kích thước rất lớn, theo truyện thần thoại thì mình rồng dài trọn một dãy núi và khoanh tròn lấp cả một hố sâu. Khi ẩn thì dấu mình trong mây mù, khi hiện thì nổi sấm chớp trời rung đất chuyển. Rồng có đầu giống đầu đà, sừng giống sừng nai, cổ giống cổ rắn, bụng giống bụng giao long, mắt giống mắt thỏ, tai giống tai bò, chân giống chân cọp, móng giống móng chim ưng và vảy giống vảy cá ly. Rồng có thể sống dưới nước, ở đáy sông đáy biển (có cả một giang sơn riêng gọi là long cung) và cũng có thể bay khắp các tầng Trời, do đó thường được chư Tiên dùng làm vật để cỡi.


Cỡi hạc thừa long: Cỡi chim hạc và cỡi rồng.


Câu 17: Giữ được cái nguyên tánh của mình để Linh hồn sau này được hưởng sự vui vẻ và nhàn hạ.


Câu 18: Và được cỡi chim hạc, cỡi rồng để bay về cõi Thiêng Liêng.


Giáo lý Cao Đài cũng dạy cho con người phải biết tu theo phương pháp hướng nội, tức là phải nhìn vào trong hay nội quán. Nhìn vào trong có nghĩa là nhìn vào nội thân mình để tìm cái nguyên tánh, chơn như, đang bị che mờ bởi thất tình, lục dục, tham, sân, si, phiền não. Nếu bên ngoài người tu dứt trừ được vô minh, bên trong tìm thấy và trụ vững được nguyên tánh thì mới nhẹ nhàng giải thoát khỏi cảnh trần lao giả tạm này, hầu được trở về cõi Phật, Tiên để Chơn linh cỡi hạc thừa long mà tiêu diêu nhàn lạc.



Lánh xa trược chất bụi hồng,


Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.


Trược chất: Hay trọc chất , các chất uế trược, dơ chất bẩn sinh ra.


Bụi hồng: Bụi đỏ. Người ta cho rằng nơi cõi trần này đầy bụi bặm màu đỏ, nên gọi cõi này là hồng trần .


Cung Tiên: Hay Tiên cung , chỉ cõi Tiên, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Vui vòng: Vui vẻ trong vòng, vui trong cảnh.


Thung dung : Thảnh thơi, thong thả.


Câu 19: Chơn linh hãy lánh xa nơi cõi vật chất dơ bẩn và hồng trần uế trược này.


Câu 20: Mà nên sớm tối vui hưởng trong vòng thung dung tự tại nơi cõi Tiên cung.



Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,


Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.


Cung ngọc: Hay Ngọc cung , chỉ nơi cõi Thiêng Liêng.


Học thông : Học cho thông suốt, học cho biết rõ.


Đạo cả: Do chữ Đại Đạo : Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đức Chí Tôn.


Chốn Hư vô: Tức cõi Hư vô hay cõi Hư linh.


Tạo Hóa : Đấng Tạo Hóa hay Đức Chí Tôn.


Tìm cơ: Tìm cơ mầu nhiệm hay tìm bí pháp của Đức Chí Tôn dạy để đắc Đạo.


Câu 21: Nơi Cung ngọc hãy học cho thông suốt nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn.


Câu 22: Hầu tìm ra cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa nơi cõi Hư linh.



Trên đường Thánh đức lần dò,


Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa công.


Thánh đức : Cái đức của bậc Thánh.


Đường Thánh đức: Đường để đạt được bậc Thánh, tức con đường đạo đức.


Trường sanh : Sống lâu dài.


Mầu nhiệm: Huyền diệu, diệu mầu.


Lò Hóa công: Hay Lò Tạo hóa, do chữ trong bài phú của Giả Nghị có câu: “Thiên địa vi lô hề, Tạo hóa vi công , 造 化 為 工” (Trời đất làm cái lò, mà Đấng Tạo hóa làm thợ để đúc nặn ra muôn vật). Chỉ Đấng Tạo Hóa, hay Đức Chí Tôn.


Câu 23 và 24: Lần dò để đi theo đường Thánh đức thì sẽ được sống vĩnh hằng nơi cõi Thiêng Liêng mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa.



Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,


Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.


Xa dòng bể khổ: Lánh xa nơi bể khổ, tức lánh xa nơi cõi trần mà con người đang chìm sâu trong biển khổ.


Diệt trần tình : Diệt những tình cảm xấu xa của con người nơi cõi trần.


Theo Phật, trần gian là cõi uế trược, nên những thứ tình cảm của con người đối xử với nhau nơi cõi ấy cũng xấu xa ô trược. Người ta chia tình cảm của con người ra làm bảy thứ, gọi là thất tình. Đó là: Hỷ (nừng), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), lạc (vui) và dục (muốn).


Cam lộ : Do từ Hán Việt Cam Lộ thủy Đây là một thứ nước thiêng liêng, huyền diệu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát luyện ra chứa trong Tịnh bình, dùng để tiêu trừ bệnh chướng, giải tỏa oan nghiệt, cải tử hoàn sanh…


Câu 25: Hãy nên từ bỏ và tránh xa nơi bể khổ.


Câu 26: Diệt những thứ tình cảm xấu xa và nhờ nước Cam lộ tẩy sạch vết nhơ.


Trong Kinh Tận độ của Cao Đài, nội dung thường hay nhắc nhở các Chơn linh người quá cố, khi thoát khỏi được thân phàm xác thịt này rồi thì phải siêu thoát lên một cõi giới cao hơn, nhẹ nhàng hơn, chứ đừng luyến tiếc cõi trần lao tục lụy đầy những khổ đau phiền não này.


Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối viết:


Cảnh thăng trổi gót cho mau,


Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.


Kinh Khi Đã Chết Rồi viết:


Cửa Tây phương khá bay đến chốn,


Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.


Kinh Tẫn Liệm viết:


Từ từ Cực Lạc an vui,


Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.


Kinh Hạ Huyệt viết:


Giải thi lánh chốn đọa đày,


Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.


Hai câu Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu trên cũng nhằm nói lên nội dung này:


Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,


Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.



Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,


Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.


Ngân kiều : Cầu bắt qua sông Ngân.


Ngân Hà là một con sông nơi cõi Thiêng Liêng. Tương truyền, Ngưu Lang, Chức Nữ bị phạt, chia cách tình yêu giữa sông Ngân, mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần vào đêm thất tịch, mùng 7 tháng 7 âm lịch, nên đêm này, nước mắt của họ chứa chan, tạo thành những cơn mưa ngâu, vì bởi khóc than một cách đau khổ cho cảnh biệt ly. Vì thế, Ngân Hà được coi như một dòng sông đau khổ.


Theo Đức Hộ Pháp, Ngân Hà là một nhánh của biển khổ, nên là một dòng sông chứa đầy khổ đau. Vì thế trên sông đó, có Đức Quan Âm Bồ Tát vâng mạng lệnh của Di Lặc Vương Phật chèo chiếc thuyền Bát Nhã đi độ sanh, tức là độ những người đầy đủ phước đức.


Trong Thánh Thi Hiệp Tuyển, sông Ngân Hà cũng được nhắc đến như:


Thuyền khơi đợi gió lướt dòng Ngân,


Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.


Bát Nhã : Do chữ Phạn là Prajna, Hán dịch là Trí huệ (Trí tuệ) . Trí huệ là trí sáng suốt nhận biết được chân tướng của mọi sự vật, chứng ngộ được chân lý của vạn hữu, tức là trí đã sáng tỏ khi đã diệt trừ được mọi vô minh, phiền não, có nghĩa là giác ngộ hoàn toàn.


Siêu thăng : Siêu vượt bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Câu 27: Trí huệ của người tu hành tạo nên con thuyền Bát Nhã để bước lên được cầu sông ngân, đến bên kia bờ giác ngộ.


Câu 28: Đưa người có duyên phần bước lên kịp giờ siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

CHÚ GIẢI KINH THẾ ĐẠO
Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA